Rau sắng


RAU SẮNG

Cây rau sắng

Lá và hoa cây rau sắng
-Tên gọi khác: Rau ngót núi; Ngót rừng; Phắc van (Rau ngọt)
-Tên tiếng Anh: Melientha wild vegetable
-Tên khoa học: Melientha suavis Pierre (1892)

Phân loại khoa học


Giới (regnum):
Thực vật (Plantae)
(không phân hạng):
Thực vật có hoa (Angiospermae)
(không phân hạng):
Thực vật hai lá mầm (Eudicots)
Bộ (ordo):
Đàn hương (Santalales)
Họ (familia):
Rau sắng (Opiliaceae)
Chi (genus):
Loài (species):
Melientha suavis

Họ Rau sắng (Opiliaceae) bao gồm các loài cây gỗ lớn sống trong rừng nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới. Họ này được phân ra thành 5 Bộ lạc (Tribes) gồm:
Họ Rau sắng có 29 Chi với khoảng 600-900 loài (tùy theo cách xác định).

Phân bố

Họ Rau sắng (Opiliaceae) phân bố rộng rải ở trong rừng tự nhiên thuộc Đông Nam Á, Trung Quốc, Châu Phi, Bắc Mỹ và Châu Úc từ rừng khô thấp cho đến rừng cao thường phủ mây.
Nhiều loài trong Họ này đang bị đe dọa do mất môi trường sống . Nhiều loài được liệt kê vào danh sách đỏ và cây rau sắng ( Melientha suavis) được đưa vào danh sách đỏ ở Việt Nam.
Ở vùng Đông Nam Á cây rau sắng phân bố ở vùng rừng núi thuộc các nước: Việt Nam, Thái Lan, Lào, Campuchia.
Ở Việt Nam cây rau sắng mọc phổ biến ở rừng ven suối, ven núi đá ở nhiều tỉnh phía Bắc như Quảng Ninh, Lạng Sơn (Hữu Lũng), Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Thái, Vĩnh Phú, Hà Tây (Mỹ Đức-Chùa Hương), Ninh Bình (Cúc Phương) Sơn La, Lai Châu, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nam-Đà Nẳng, Rừng Trường Sơn, Kontum, Gia Lai, Lâm Đồng. Ở Miền Nam chỉ mới biết có ở rừng của núi Dinh (Bà Rịa - Vũng Tàu). Loài cây này sống ở độ cao khoảng 100-200 mét trở lên so với mực nước biển. Nơi có mật độ cao nhất là ở Vườn Quốc gia Xuân Sơn và vùng đệm của vườn quốc gia này thuộc tỉnh Phú Thọ.
Trước kia cây sắng chỉ mọc hoang dã và bị người dân khai thác kiểu tận thu mà không có bảo tồn, chăm sóc, phát triển nên là một trong những loại cây có nguy cơ bị tuyệt chủng cao, được đưa vào Sách đỏ Việt Nam. (Sách đỏ Việt Nam - trang 189.).
Cây sắng là loài cây thuộc Bộ Đàn hương (người Việt còn gọi là cây mì chính, rau ngót rừng, người Dao gọi là lai cam, người Mường gọi là là tắc sắng, dân tộc Tày - Thái gọi là pắc van và tất cả đều có nghĩa là rau ngọt).

Mô tả

-Thân: Trong rừng rậm thân cây sắng sống lâu năm to, cao, có khi lên tới hàng chục mét chiều cao và đường kính thân tới 20–30 cm, vì vậy muốn hái lá non thường người ta phải trèo lên cây để hái.
Ở rừng thưa cây gỗ nhỏ cao 4-8m, nhẵn; các cành mảnh ở ngọn cây, vỏ màu lục, khi già có màu lốm đốm trắng và hoá bần.
Vỏ cây dày, màu xám nhạt và hoá bần, mềm, nứt dọc thành những răng sâu. Gỗ trắng, cành và lá non màu lục, rũ xuống, mềm, dễ nứt, có vị ngọt cuả mì chính.
-Lá: Lá mọc so le, hình ngọn giáo, thu hẹp tù lại cả hai đầu, rất nhẵn, dày, dài 7-12cm, rộng 3-6cm, gân phụ 4-5 đôi, mảnh, cuống lá 4-5mm. Lá thường xanh hay rụng lá theo mùa (nơi có khí hậu lạnh).
-Hoa: Hoa đơn tính, có mùi thơm. Cụm hoa chùy hoặc bông kép, dài 13cm, mọc dày đặc trên thân và cành già. Hoa hình cầu, cao 2 mm, tạp tính, rất thơm. Đài rất nhỏ, hơi nạc, không có thùy rõ ràng. Tràng gồm 4 - 5 phiến hình mác, hợp với nữa dưới. Nhị 4-5, mọc đối với thùy tràng và ngắn hơn. Chỉ nhị rất ngắn, đính trên sống tràng. Bao phân hình bầu dục, lõm ở đầu, dài 1,5mm. Đĩa cuả hoa đực gồm 4-5 tuyến, mọc xen với cánh hoa, nạc, hình nêm. Nhụy lép hình trứng, không có núm rõ ràng. Ở hoa cái, tuyến đĩa hình trứng ngược, dẹt, ngắn hơn bầu. Bầu 1 ô, gân hình cầu, nhỏ, không có cuống, đường kính 2mm; vòi không có núm, hình khôi nạc hơi chia thùy, quả hạch, hóa gỗ, hình thuôn hay hình trứng, dài 2,5cm, đường 1,3-1,5cm, mùa lục nhạt, nhẵn, vị ngọt, hơi ngứa.
-Quả: Quả gần như nạc, thuôn hay hình trứng, dài 25mm, rộng 17mm, khi chín màu vàng có hạch cứng chứa một hạt. 
-Hạt: Hạt có xơ trắng, ăn được, có vị béo, ngọt.

Thành phần hóa học

Lá, chồi non của cây sắng trông xanh thẫm, óng ả, mỡ màng, có hàm lượng protit  acid amin cao hơn hẳn các loại rau khác.
Trong 100g rau sắng có khoảng 6,5 - 8,2g protit, 0,23g lysin, 0,19g methionin, 0,08g tryptophan, 0,25g phenylanalin, 0,45g treonin, 0,22g valin, 0,26g leucin và 0,23g isoleucin, 11,5 mg vitamin C, 0,6 mg caroten v.v gấp nhiều lần rau ngót, đậu ván. Có đủ các axit amin thiết yếu cho con người.

Công dụng

a-Dùng làm rau
Ở các nước Đông Nam Á người ta thường lấy lá non, lá bánh tẻ, hoa, quả non xào hay nấu canh ăn. Có thể nấu canh với thịt nhưng cũng có thể nấu canh suông, bát canh vẫn ngon ngọt, đậm đà. Lá rau sắng nấu canh tuy đã ngon, nhưng khi có thêm những chồi nụ vàng như hoa ngâu thì canh có đầy đủ hương vị bùi, thơm, ngon ngọt và dịu mát. 
Rau sắng là loại rau nấu canh ăn rất ngọt nước. Trước kia, bộ đội Việt Nam hành quân trên đường Trường Sơn thường phơi khô để dành, khi nấu canh các loại rau rừng thì cho vào nồi canh mấy ngọn rau sắng thay mì chính. Vì dinh dưỡng rất cao, ngon ngọt đậm đà, rau sắng ăn rất bổ cho những phụ nữ mới sinh và người mới ốm dậy, nó còn được coi là một vị thuốc chữa bệnh đường ruột rất tốt.
Rau sắng, bao gồm cả lá non và các đọt thân, thường được sử dụng để nấu canh. Bát canh rau sắng có thể nấu với một trong các nguyên liệu như xương lợn, tôm nõn giã nhỏ, giò chả, thịt gà, cá rô, cá quả v.v. mỗi thứ một vị, đều rất thơm ngon và bổ dưỡng. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của những người sành ăn, chỉ khi nấu canh suông người ta mới cảm nhận hết những giá trị của thứ rau xanh mọc giữa trời, đất, gió, và núi này. Đun nồi nước sôi, thêm chút muối ăn và nếm thấy vừa vặn thì cho nắm lá rau sắng cùng các đọt thân đã rửa sơ vào nước, chờ nước sôi lại rồi bắc ra ngay, không nên nấu nát quá tuy làm nước ngọt hơn nhưng rau lại bã, ăn mất ngon. Đặc biệt, không nên bỏ thậm chí cả những đọt thân hơi già và không cần dùng mì chính cho món canh này. Chậm rãi nhai từng chiếc lá, từng đọt ngọt để cảm nhận được vị bùi, vị ngọt, mùi hương thoang thoảng mát mát của chất đạm thực vật thật khó tả.
Những chùm "rồng rồng" với hoa, nụ và quả non của cây sắng khi nấu canh ăn còn ngon ngọt hơn cả lá non. Tuy nhiên, những chùm hoa này, cùng với những đọt thân non to mập, không chỉ nấu canh mà hợp hơn cả là xào với thịt bò đã ướp với chút nước mắm và gừng, tỏi.
Quả sắng chín ăn ngọt như mật ong nhưng hơi rát lưỡi. Người ta thường tách vỏ để lấy hạt ninh với xương thành món canh vừa ngon ngọt, vừa bổ dưỡng.
Rau sắng chùa Hương hiện nay trở thành thương hiệu rau sạch nổi tiếng, bán với giá khá đắt (khoảng 200.000 đồng/1 ký) tại Lễ hội chùa Hương và hệ thống các siêu thị miền Bắc Việt Nam. Theo đánh giá có tính chất cảm tính của người sành ăn, rau sắng chùa Hương ăn ngon, thơm và đậm đà hơn các loại rau sắng nơi khác, người khác lại cho rằng rau sắng tại Kim Bảng, Hà Nam có vị ngọt đậm không đâu sánh bằng. Tuy nhiên điều này thực tế chưa được kiểm định mà chủ yếu là những nhận xét "lưu truyền trong dân gian".
b-Rau sắng trong thi ca
Thi sĩ Tản Đà là một người rất mê rau sắng. Trong Lễ hội chùa Hương xuân Nhâm Tuất, tháng 1 năm 1923 do không đi được lễ hội, ông đã cho đăng bài Rau sắng chùa Hương trên Chuyện thế gian 1:
Muốn ăn rau sắng chùa Hương
Tiền đò ngại tốn con đường ngại xa
Mình đi ta ở lại nhà
Cái dưa thì khú cái  thì thâm.
Sau hội chùa Hương năm đó, Tản Đà nhận được một bưu kiện gửi từ Phủ Lý. Mở ra là một bó rau sắng chùa Hương còn tươi nguyên, vì bưu phẩm không có tên người gửi, chỉ thấy bài họa đề Đỗ Tang nữ bái tặng:
Kính dâng rau sắng chùa Hương
Tiền đò đỡ tốn con đường đỡ xa
Không đi thời gửi lại nhà
Thay cho dưa khú cùng là cà thâm.
Về việc này làm Tản Đà mất nhiều công điều tra tìm hiểu. Sau mới biết đây là cô gái có tên Đỗ Thị Song Khê, (em nữ sĩ Tương Phố) biệt hiệu là Song Khê, quê huyện Cẩm Khê Hưng Yên, làm việc ở Hà Nam, sau này sang sống và mất trên đất Mỹ. Rồi ông cho đăng bài thơ họa của Đỗ Thị Song Khuê trên Truyện thế gian (tháng 11 năm 1923) cùng với bài thơ cảm ơn của mình nhan đề Nguyễn Khắc Hiếu bái tạ:
Mấy lời cảm tạ tri âm
Đồng bang là nghĩa đồng tâm là tình
Đường xa rau vẫn còn xanh
Tấm lòng thơm thảo bát canh ngọt ngào
Yêu nhau xa cách càng yêu
Dẫu rằng suông nhạt càng nhiều chứa chan
Nước non khuất nẻo ngư nhàn
Tạ lòng xin mượn thế gian đưa tình.
Đây là một câu chuyện hoàn toàn có thật, theo thời gian nó thành giai thoại rau sắng chùa Hương, cũng là giai thoại về tình yêu trong tâm khảm của thi nhân với người sơn nữ, đã trở thành lời tôn vinh hết mực món rau đặc biệt này, khiến rau sắng mọc ở đất Phật Hương Sơn được bạn bè xa gần biết đến như một món quà quê nhà bình dị mà đặc sắc.

Cụ bà bán rau sắng ở Lễ hội Chùa Hương
b-Rau sắng dùng làm thuốc
Rễ được sử dụng chữa sán (theo Lê Kim Biên, Tập san Sinh vật Ðịa học số 11-1973).

Báo động rau sắng là cây sách đỏ Việt nam

Tình trạng:
Biết không chính xác. Loài phân bố rộng nhưng có số lượng cá thể không nhlều, lại bị chết quá mức và môi sinh bị tàn phá mạnh .
Giá trị:
Nguồn gen độc đáo. Là một trong hai loài duy nhất của chi Melientha phân bố không rộng ở Đông Dương và Thái Lan. Loài rau rừng có giá trị vì cành, lá non, hoa và quả non dùng nấu canh ăn ngọt như có vị mì chính.
Sinh học:
Mùa hoa nở tháng 3-4, mùa quả chín tháng 6-8. Tái sinh mạnh bằng hạt và chồi. Cây mọc nhanh.
Nơi sống và sinh thái:
Mọc rải rác trong rừng thưa ở thung lũng, chân đồi và đất, núi đá vôi, ven suối.
Đề nghị biện pháp bảo vệ:
Khi lấy lá và hoa và quả làm rau không được chặt cành hoặc cả cây. Trồng thêm và bảo vệ môi trường mà loài sinh sống.
Tài liệu dẫn: Sách đỏ Việt Nam - trang 189.

Trồng và thu hoạch

Cây sắng là một loại cây khá đặc biệt, cả cây cái và cây đực đều ra những chùm hoa trắng muốt lấm tấm như hoa ngâu, gọi là chùm rồng rồng, nhưng chỉ hoa những cây cái mới kết quả. Trước kia cây sắng chỉ mọc hoang dã và bị người dân khai thác kiểu tận thu mà không có bảo tồn, chăm sóc, phát triển nên là một trong những loại cây có nguy cơ tuyệt chủng cao, được đưa vào Sách đỏ Việt Nam. Cây sắng ưa đất ẩm, sống bằng mùn đất do lá cây mục nát tạo ra, thường mọc dưới tán lá của những loại cây khác, không ưa các loại phân bón hóa học. Dù khá khó trồng do kén đất và nhạy cảm với các phương thức chăm sóc cơ học, cây vẫn có thể được nhân giống bằng hạt, hom rễ; trồng phân tán, trồng xen vào các khu rừng tái sinh hoặc trồng xen với cây ăn quả. Hiện nay đã có nhiều nơi trồng thành công, nhờ những dự án bảo tồn và phát triển cây sắng ở Vườn Quốc gia Xuân Sơn thuộc huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ và tại xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây.
Cuối mùa đông cây sắng rụng hết lá già, đến những ngày đầu của mùa xuân, khoảng tháng tháng 2, cây bắt đầu ra những ngọn lá non đầu tiên, và đến tháng 3 tháng 4 là đỉnh điểm mùa thu hoạch ngọn, lá và cả những chùm hoa. Thường cây sắng có độ tuổi từ 3-4 năm trở lên sẽ bắt đầu được thu hái, nhưng phải vài năm sau cây mới đạt hiệu suất cao nhất. Khi bị cắt những đọt ngọn, cây sẽ nhanh chóng mọc ra tua tủa những chồi non, nhưng cũng không nên khai thác quá mạnh tay vì cây sẽ còi cọc, thường trong khoảng trên dưới một tháng sau là có thể thu hoạch tiếp đợt mới.
Những chùm "rồng rồng" và quả non cũng được thu hái để chế biến các món ăn. Đến khoảng tháng 6, trên những cây sắng cái quả chín vàng thành chùm lúc lỉu, tròn dài và to như quả nhót, đây cũng là thời điểm đánh dấu mốc hết mùa rau sắng.

Các tài liệu cần đọc thêm

Tài liệu tham khảo
6-http://www.skydoor.net/entry/Muon_an_rau_sang_chua_Huong/286
                                                                                                         Kỹ sư Hồ Đình Hải

Gừng


GỪNG

Cây gừng

Củ gừng
-Tên gọi khác: Can khương (vị thuốc), Sinh khương (vị thuốc).
-Tên tiếng Anh: Ginger, Ginger root, Zingiber.
-Tên khoa học: Zingiber officinale Roscoe 1807.
-Các loài tương cận:
-Nghệ :Curcuma longa Linnaeus.
-Riềng: Alpinia officinarum.

Phân loại khoa học

Theo Hệ thống phân loại APG III (2009):

Giới (Kingdom):
Thực vật (Plantae)
Ngành (Phylum):
Thực vật có hoa (Angiosperms)
Lớp (Class):
Một lá mầm (Monocots)
Phân lớp (Subclass):
Thài lài (Commelinids)
Bộ (Order):
Gừng (Zingiberales)
Họ (Family):
Gừng (Zingiberaceae)
Chi (Genus):
Gừng (Zingiber)
Loài (Species):
Zingiber  officinale

Họ Gừng (Zingiberaceae), là một Hthực vật thân thảo sống lâu năm với các thân rễ bò ngang hay tạo củ, bao gồm 47 chi và khoảng trên 1.000 loài, phân bố ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, chủ yếu ở Nam và Đông Nam Châu Á.
Nhiều loài là các loại cây cảnh, cây gia vị, hay cây thuốc quan trọng. Các thành viên quan trọng nhất của họ này bao gồm gừng, nghệ, riềng, đậu khấu  sa nhân.
Đặc trưng chung của các loài trong Họ gừng là thực vật tự dưỡng hay biểu sinh.
-Thân rễ lớn, thường phân nhánh, chứa nhiều chất dự trữ.
-Lá có các bẹ dài ôm lấy nhau làm thành thân giả, cuống ngắn và phiến lớn, giữa cuống và bẹ lá có phần phụ gọi là lưỡi bẹ (ligule).
Thân lá thường có mùi thơm. Ở nhiều loài thân khí sinh chỉ xuất hiện khi cây ra hoa, mọc lên từ thân rễ, xuyên qua thân giả ra ngoài mang ở phần cuối 1 cụm hoa (chi Alpinia), nhưng có loài cụm hoa nằm ngay trên thân rễ ở sát mặt đất.
-Hoa không đều, đài hình ống, màu lục, tràng hình ống, phía trên chia 3 thùy, thùy giữa lớn hơn hai thùy bên. Chỉ có một nhị sinh sản (ở vòng trong) với 2 bao phấn lớn nứt phía trong. Một cánh môi hình bản lớn, màu sặc sỡ, do 3 nhị dính với nhau và biến đổi thành, nằm đối diện với nhị sinh sản. Hai nhị còn lại biến thành hai nhị lép (vô sinh) nhỏ nằm 2 bên bao phấn (nhiều khi giảm chỉ còn lại những vảy nhỏ, hoặc mất hẳn). Bầu dưới có 3 ô, mỗi ô chứa nhiều noãn. Vòi nhụy chui qua khe hở giữa 2 bao phấn và thò ra ngoài. Quả nang, đôi khi là quả mọng. Hạt có nội nhũ và cả ngoại nhũ. Mô của các loại cây trong họ này tiết ra tinh dầu có mùi đặc trưng.
Các Chi quan trọng trong Họ gừng (Zingiberaceae) gồm có:
+Phân họ Alpinioideae
-Tông Alpinieae
Chi Alpinia - riềng
Chi Amomum - đậu khấu
Chi Elettaria - (tiểu) đậu khấu
+Phân họ Zingiberoideae
-Tông Zingibereae
Chi Curcuma - nghệ
Chi Zingiber - gừng

Phân bố

Họ Gừng (Zingiberaceae), là một Hthực vật thân thảo sống lâu năm với các thân rễ bò ngang hay tạo củ, bao gồm 47 chi và khoảng trên 1.000 loài, phân bố ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, chủ yếu ở Nam và Đông Nam Châu Á.
Chi Gừng (Zingiber) ở Châu Á có khoảng 45 loài, ở Việt Nam có 11 loài.
Gừng là loại cây gia vị cổ điển được trồng ở nhiều nước trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, từ Đông Á đến Đông Nam Á và Nam Á. Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản là những nước trồng Gừng nhiều nhất thế giới. Ở Việt Nam, cây được trồng ở khắp các địa phương, từ vùng núi cao đến đồng bằng và ngoài các hải đảo.
Trong nhân dân hiện nay có nhiều loại: gừng trâu có thân to, củ to thường để làm mứt, có nhiều ở các vùng núi thấp; gừng gié có thân và củ đều nhỏ nhưng rất thơm. Cây ưa ẩm, ưa sáng. Cây trồng thường có hoa năm thứ 2. Chưa thấy cây có quả và hạt. Gừng trồng sau 1 năm nếu không thu hoạch sẽ có hiện tượng tàn lụi (phần trên mặt đất) qua đông. Thời gian sinh trưởng mạnh của cây trùng với mùa hè-thu nóng và ẩm. Gừng tái sinh dễ dàng bằng những đoạn thân rễ có nhú mầm, có thể trồng quanh năm nhưng tốt nhất vào mùa xuân. Ra hoa vào mùa hạ và mùa thu.

Mô tả

-Thân:
Thân cây gừng có hai dạng đó là thân ngầm (thường gọi là củ) và thân khí sinh.
Thân rễ có khi phồng thành củ. Thân rễ (quen gọi là củ) không có hình dạng nhất định, phân nhánh trên một mặt phẳng, làm thành nhiều đốt, kích thước không đều, dài 3-7 cm, dày 0,5-1,5 cm, mặt ngoài màu trắng tro hay vàng nhạt, có vết nhăn dọc, ở đầu đốt có vết tích của thân cây đã rụng, trên các đốt có vết sẹo của các lá khô (vảy), vết bẻ màu trắng tro hoặc ngà vàng, lõi tròn rõ, mùi thơm, vị cay nóng.
Đặc điển giải phẩu thân rể: Biểu bì gồm một lớp tế bào hình chữ nhật, nhỏ xếp tương đối đều đặn. Dưới lớp biểu bì là mô mềm vỏ gồm 5-6 lớp tế bào hơi dẹp, vách tẩm chất gỗ. Phía dưới lớp mô mềm vỏ này có khoảng 5 lớp bần. Mô mềm vỏ khuyết, tế bào tròn, vách mỏng, có thể bị bẹp lại và nhăn nheo đối với thân rễ già. Nội bì đai Caspary, trụ bì gồm 1 lớp tế bào kích thước không đều, có xu hướng bị ép dẹp bởi các bó libe gỗ nằm gần đó. Vòng nội bì và trụ bì gần như liên tục. Mô mềm tủy là những tế bào hình tròn, to hơn tế bào mô mềm vỏ. Rất nhiều bó libe gỗ tập trung thành 1 vòng sát trụ bì và rải rác khắp mô mềm vỏ và mô mềm tuỷ. Mỗi bó có 1-6 mạch gỗ, libe chồng lên gỗ. Tế bào tiết chứa tinh dầu màu vàng tươi rất nhiều trong mô mềm vỏ và tủy.
Thân khí sinh: Cấu tạo từ nhiều bẹ lá ôm lấy lõi thân, là thân cỏ nhiều năm, cao khoảng 1 m.
-Bẹ lá: Hình lưỡi liềm. Biểu bì trên hình đa giác, có kích thước lớn hơn biểu bì dưới. Mô mềm khuyết. Các bó mạch nhỏ, gồm từ 1-6 mạch gỗ, gỗ ở trên, libe ở dưới, các tế bào xung quanh hóa mô cứng. Tại đoạn có bó mạch, mô mềm và biểu bì bị ép dẹp. Ở bẹ lá ngoài cùng rải rác có biểu bì tiết.
- Thân: vi phẫu hình bầu dục. Tế bào biểu bì hình chữ nhật, nhỏ. Dưới biểu bì là mô mềm khuyết hay đạo, tế bào hình tròn, vách mỏng. Trụ bì gồm 2-3 lớp tế bào uốn lượn tạo thành 1 vòng liên tục. Bên trong và ngoài vòng trụ bì có nhiều bó mạch gỗ nhỏ gồm từ 1-6 mạch gỗ, libe chồng lên gỗ. Các bó gỗ ngoài trụ bì thường có vòng mô cứng bao xung quanh, các bó phía trong thì không có. Mô mềm tủy đạo, tế bào đa giác hoặc chữ nhật, đôi khi có chừa các khuyết lớn.
Ở bẹ lá và thân đều chứa rải rác tinh thể calci oxalat hình khối nhỏ, túi tiết và tế bào tiết rải rác trong vùng mô mềm.
-Lá:Lá không cuống, mọc so le thành 2 dãy, hình ngọn giáo, thắt lại ở gốc, đầu nhọn dài 15-20 cm, rộng 2 cm, mặt trên màu lục sẫm bóng, mặt dưới nhạt; gân lá song song. Bẹ nhẵn, có thể ôm vào nhau thành một thân giả. Lưỡi nhỏ dạng màng, nhẵn, chia 2 thùy cạn.
Giải phẩu lá: Mặt trên lõm, mặt dưới lồi, tế bào biểu bì hình đa giác, biểu bì dưới nhỏ hơn biểu bì trên, biểu bì tiết có cả ở 2 mặt. Mô mềm khuyết. Nhiều bó mạch xếp thành hàng, gỗ ở trên, libe ở dưới, vòng mô cứng nằm dưới libe. Bó gỗ ở gân giữa là lớn nhất và nhỏ dần về 2 phía. Túi tiết và tế bào tiết rải rác trong vùng mô mềm. Ở 2 bên phiến lá, dưới biểu bì trên có 1 lớp tế bào hạ bì lớn, không liên tục và 3 lớp mô mềm khá giống mô giậu, nhưng tế bào ngắn hơn. Trên biểu bì dưới cũng có 1 lớp hạ bì.
Biểu bì lá: Cả 2 mặt đều có lỗ khí nhưng biểu bì dưới có nhiều hơn, lỗ khí kiểu 1 lá mầm, các tế bào bạn có dạng hình chữ nhật ngắn hay lục giác. Biểu bì trên xếp đều đặn và thẳng hàng hơnbiểu bì dưới.

Thành phần hóa học

-Theo phân tích của Bộ Nông nghiệp Mỹ:

Thành phần
Trong 100 g củ gừng tươi
Trong 100 g củ gừng khô
333 kJ (80 kcal)
1.404 kJ (336 kcal)
17,77 g
71,62 g
1,70 g
3,39 g
2,0 g
14,1 g
0,75 g
4,24 g
1,82 g
8,98 g
0 IU
30 IU
5,0 mg (6%)
0,7 mg (1%)
34 mg (5%)
168 mg (24%)
415 mg (9%)
1320 mg (28%)
-Theo ghi nhận của Từ điển Bách khoa mở:Wikipedia, the free encyclopedia
Các mùi đặc trưng và hương vị của gừng được gây ra bởi một hỗn hợp của zingerone, shogaols  Gingerols, tinh dầu dễ bay hơi chiếm1-3% trọng lượng của gừng tươi. Ở trong phòng thí nghiệm động vật, các Gingerols làm tăng nhu động của đường tiêu hóa và có tác dụng như thuốc giảm đau , thuốc an thần , hạ sốt và các đặc tính kháng khuẩn. Tinh dầu Gừng đã được chứng minh để ngăn ngừa ung thư da ở chuột và một nghiên cứu tại Đại học Michigan đã chứng minh rằng Gingerols có thể tiêu diệt tế bào ung thư buồng trứng. Hợp chất [6]-gingerol (1-[4'-hydroxy-3'-metoxyphenyl]-5-hydroxy-3-decanone) là thành phần chính tạo mùi hăng của gừng. Tiềm năng chất chemopreventive [6]-gingerol tyrong củ gừng là một chất thay thế đầy hứa hẹn trong tương lai để thay thế các loại thuốc trị liệu ung thư đắt tiền và độc hại.
Gừng chứa đến 3% tinh dầu có mùi thơm với thành phần chính là sesquiterpenoids, với (-)-zingiberene là thành phần chính. Số lượng nhỏ hơn của chất sesquiterpenoids khác ( β-sesquiphellandrene , bisabolene  farnesene ) và một phần nhỏ chất monoterpenoid ( β-phelladrene , cineol ,citral ) cũng đã được xác định.
Hương vị cay nồng của gừng là do Nonvolatile phenylpropanoid có nguồn gốc từ các hợp chất, đặc biệt là Gingerols  shogaols , tạo thành từ Gingerols khi gừng được sấy khô hoặc nấu chín. Zingerone cũng được sản xuất từ Gingerols trong quá trình này, hợp chất này là ít hăng hơn và có mùi thơm cay ngọt. Gừng cũng là một chất kích thích hóa học nhẹ, và đã được  sử dụng bởi các nhà quân sự Châu Âu trước Thế chiến I bằng cách nhét bột gừng vào hậu môn ngựa chiến để kích thích chúng hăng lên trong chiến trận gọi là những “Trung đoàn ngựa chiến feaguing.
Ngoài ra gừng còn có tác động kích thích tuyến nước bọt “sialagogue làm tăng  sản xuất nước bọt nhiều hơn, làm cho việc nuốt dễ dàng hơn, giúp người già ăn uống dể dàng hơn.
-Theo Bộ môn thực vật-Khoa dược-Đại học Y Dược TP.HCM
Thành phần hóa học của Gừng như sau:
Gừng chứa 2-3% tinh dầu với thành phần chủ yếu là các hợp chất hydrocarbon sesquiterpenic: β-zingiberen (35%), ar-curcumenen (17%), β-farnesen (10%) và một lượng nhỏ các hợp chất alcol monoterpenic như geraniol, linalol, borneol.
Nhựa dầu chứa 20-25% tinh dầu và 20-30% các chất cay. Thành phần chủ yếu của nhóm chất cay là zingeron, shogaol và zingerol, trong đó gingerol chiếm tỷ lệ cao nhất. Ngoài ra, trong tinh dầu Gừng còn chứa α-camphen, β-phelandren, eucalyptol và các gingerol. Cineol trong Gừng có tác dụng kích thích khi sử dụng tại chỗ và có tác dụng diệt khuẩn trên nhiều vi khuẩn.

Công dụng của cây gừng

a-Củ gừng làm rau gia vị
Củ gừng già với hương vị đậm đà thường được sử dụng như là một gia vị trong công thức nấu ăn của Ấn Độ, và là một thành phần tinh túy của Trung Quốc , Hàn Quốc , Nhật Bản và nhiều món ăn Nam Á cho hương vị món ăn như hải sản hoặc thịt dê   ẩm thực ăn chay và ăn kiêng .
-Ở Việt Nam củ gừng là món rau gia vị được dùng vào nhiều mục đích như nước chấm (nước mắm gừng), tương gừng, trong nhiều món xào, món nấu (với thịt dê, bò)…
-Ở Ấn Độ và Pakistan, gừng tươi là một trong các loại gia vị chính được sử dụng để nấu món cà ri đậu Pulse, đậu lăng và các thực vật khác. Củ gừng như một chất bảo quản thực phẩm hữu ích.
Bột gừng cũng được sử dụng trong một số chế phẩm thực phẩm, đặc biệt là đối với phụ nữ mang thai hoặc cho con bú, một trong những món ăn phổ biến nhất là katlu, là một hỗn hợp sền sệt bao gồm bơ sữa trâu lỏng, các loại hạt, và đường. 
-Ở Bangladesh , gừng băm nhỏ hoặc nghiền thành dạng bột nhão để sử dụng như là một cơ sở cho các món ăn thịt gà và thịt cùng với hành tím và tỏi.
-Ở Châu Âu, trong các món ăn Châu Âu, gừng được sử dụng chủ yếu trong các loại thực phẩm ngọt như  bánh gừng , gừng snaps , parkin , bánh quy gừng speculaas. 
-Ở Mianma gừng được gọi là gyin . Nó được sử dụng rộng rãi trong nấu ăn, món phổ biến là xà lách gyin-Thốt Nốt , trong đó bao gồm gừng cắt nhỏ bảo quản trong dầu, và một loạt các loại quả hạch và các loại hạt. 
-Ở Trung Quốc, củ gừng cắt lát hoặc toàn bộ thường được kết hợp với các món ăn ngon như cá, và củ gừng xắt nhỏ thường được kết hợp với thịt, khi nó được nấu chín. 
-Ở Nhật Bản, gừng ngâm để làm cho Beni Shoga  Gari hoặc xát nhỏ và sử dụng nguyên liệu trên đậu phụ hoặc  -Ở hàn Quốc, trong món kim chi truyền thống, gừng được thái nhỏ và thêm vào các thành phần của hỗn hợp cay ngay trước khi quá trình lên men.
-Ở Indonesia cũng sử dụng củ gừng gọi là jahe, như là thành phần phổ biến trong công thức nấu ăn địa phương. 
-Ở malaysia, gừng được gọi là Halia và được sử dụng trong nhiều loại món ăn, đặc biệt là một món súp. 
- Việt Nam , lá gừng tươi, xắt nhỏ, cũng có thể được thêm vào món tôm xào và canh khoai lang như một kiểu trang trí bắt mắt và chất gia vị từ lá để thêm một hương vị tinh tế hơn nhiều so với củ gừng xắt nhỏ.
b-Củ gừng được dùng làm kẹo, mứt.
-Ở Việt Nam, gừng được chế thành kẹo gừng có tác dụng chống lạnh, thông cổ. Trong dịp tết cổ truyền thường có món mức gừng để ấm bụng và kích thích tiêu hóa.
-Ở Ấn Độ và Pakistan, Gừng cũng được sử dụng dưới dạng kẹo ngậm. Kẹo gừng là củ gừng nấu đường cho đến khi mềm, và là một loại bánh kẹo dùng phổ biến để uống trà.
-Ở Nhật bản gừng cũng được làm thành kẹo gọi là Shoga không zuke Sato . 
Tuy nhiên, kẹo gừng đôi khi là một thành phần của hộp kẹo Trung Quốc, và trà thảo dược cũng có thể được chế biến từ gừng.

Mứt gừng
c-Gừng được dùng như nước trà
Trà gừng là một thức uống ở nhiều nước Châu Á, được làm từ củ gừng. 
Trà ủ từ gừng là một phương thuốc dân gian phổ biến để chống cảm lạnh ở nhiều nước.
-Ở Ấn Độ và Pakistan, gừng tươi hoặc sấy khô được sử dụng để trà và cà phê vị gừng, đặc biệt là vào mùa đông. 
-Ở Trung Quốc, trà gừng được chế bằng cách bóc vỏ và thái lát gừng đun trong nước cho đến sôi, đường nâu (tốt nhất từ mía lau) thường được thêm vào. Cắt lát trái  cam hoặc chanh thêm vào để tạo thêm hương vị. Trà gừng có tác dụng chống lạnh, giải cảm.Trà thảo dược cũng có thể được chế biến từ gừng.
-Ở Hàn Quốc , trà gừng được gọi là cha saenggang . Nó có thể được thực hiện bằng cách đun sôi lát gừng hoặc bằng cách trộn nước nóng vào gừng ngọt được bảo quản. Có nhiều nới gừng thát lát được tẩm với mật ong lưu trữ trong một vài tuần như mứt, pha nưới sôi được món nước trà gừng.
-Ở Nhật Bản trà gừng được gọi là shōgayu. Dùng uống chống lạnh và giải nhiệt.
-Ở Philippines, trà gừng được gọi là salabat , phục vụ trong các tháng tương đối lạnh vào mùa đông. Từ trà gừng  với thành phần chính là gừng tươi, có hương vị cay và kích thích.
-Ở Indonesia, một thức uống gọi là wedang jahe được làm từ gừng và đường cọ. 
-Ở Ả Rập và một số nước Trung Đông, gừng được gọi là zanjabil, và bột gừng được sử dụng như là một gia vị cho cà phê và sữa.
-Ở Somaliland , gừng được gọi là sinjibil, được phục vụ trong các cửa hàng cà phê tại Ai Cập. 
-Ở Bờ Biển Ngà , gừng nghiền nát và trộn với cam, dứa và chanh để sản xuất nước hoa quả được gọi là nyamanku . 
-Ở Yêmen, bột gừng được sử dụng trong hawaij, một hỗn hợp gia vị được sử dụng chủ yếu do người Do Thái Yemenite dùng cho súp và cà phê.
-Ở Anh, gừng cũng được sử dụng làm gia vị thêm vào cà phê nóng, trà nóng.

Trà gừng
d-Gừng dùng trong nước uống có gas
Loại nước uống Soda gừng Ginger ale  bia gừng cũng uống say như như các loại bia khác nhưng có tác dụng tốt cho dạ dày được một số quốc gia Châu Âu và Nam Mỹ nơi mà công nghệ đồ uống phát triển, nước uống có gas từ gừng được khai thác.
Ở Pháp, rượu gừng là một dạng rượu mùi với tên gọi là Canton được sản xuất tại Jarnac.
Ở Anh rượu gừng “Green” là một loại rượu có vị gừng được sản xuất với chai thủy tinh màu xanh lá cây.
Ở đảo Corfu , Hy Lạp, một thức uống truyền thống có gừng gọi là tsitsibira , một loại bia gừng, được phổ biến. Thức uống này bắt nguồn từ người Hoa kỳ gốc Anh Anh khi Hoa Kỳ chiếm đóng hòn đảo Ionian.
Jamaica làm bia gừng như là một loại thức uống tươi và thức uống có gas trong gia đình. Trà gừng thường được làm từ gừng tươi, cũng như đặc sản bánh gừng Jamaica nổi tiếng khu vực.
e- Các bộ phận cây gừng được dùng làm thuốc
+Theo Đông y
Gừng có vị cay, tính ấm, vào 3 kinh phế, tỳ, vị, có tác dụng phát biểu, tán hàn ôn trung, tiêu đàm, hành thủy, giải độc. Trong hầu hết các thang thuốc Đông y, dù bệnh hàn hay nhiệt, hư hay thực, các thầy thuốc vẫn thường dùng từ 3 đến 5 lát gừng sống. Ngoài tác dụng hạn chế bớt tính lạnh của các vị thuốc hàn, cách phối hợp này còn giúp cho tỳ vị dễ hấp thu thuốc và người bệnh khỏi nôn ra đối với những thuốc khó uống. Ngoài ra tùy theo hình thức sử dụng, gừng có nhiều công dụng khác nhau.
Gừng sống còn gọi là sinh khương có tác dụng phát tán phong hàn, chống nôn ói. Gừng khô còn gọi là can khương, có tính nóng hơn sinh khương, có thể làm ấm tỳ vị. Gừng đốt cháy tồn tính còn gọi là hắc khương. Hắc khương có vị đắng, thường được tẩm đồng tiện, có thể làm ấm can thận, giáng hư hỏa. Vỏ gừng được gọi là khương bì có tác dụng lợi tiểu. Trong kỹ thuật bào chế, gừng cũng có thể giúp cho thầy thuốc đạt được một số mục đích quan trọng. Sinh địa nấu với gừng sẽ hạn chế bớt tính mát. Bán hạ chế với gừng để giải độc. Một số loại thuốc khác như sâm, đinh lăng... cũng thường được tẩm gừng, sao qua để tăng tính ấm và dẫn vào phế vị.
-Ở Trung Quốc, gừng được bao gồm trong một số toa thuốc truyền thống . Một thức uống gồm củ gừng thái lát nấu nước với đường nâu hoặc với nước cola được sử dụng như một loại thuốc dân gian để trị bệnh cảm lạnh thông thường. Người Trung Quốc cũng làm một loại kẹo gừng khô được lên men trong nước ép mận có đường, thường được dùng để ngăn chặn bệnh ho. Trong lịch sử Y học Trung Quốc cũng đã dùng gừng để điều trị viêm, nhưng một số nghiên cứu khoa học hỗ trợ, cho thấy gừng trị bệnh viêm khớp không có tốt hơn so với các loại tân dược hiện đại.
-Ở Mianma, gừng và chất tạo ngọt địa phương được làm từ nước cốt trái cây cọ (htan nyat ) được đun sôi với nhau và được dùng để phòng ngừa cúm. Gừng là vị thuốc chính trong các bài thuốc y học cổ truyền.
-Ở Congo, gừng nghiền nát và trộn với nhựa cây xoài để làm ra thuốc tangawisi nước, được coi là một thuốc chữa bách bệnh.
-Ở Ấn Độ, gừng xắt lát được dán lên trán để làm giảm đau đầu, và được sử dụng để ăn khi bị cảm lạnh thông thường. Gừng với chanh muối chanh cũng được sử dụng chống buồn nôn.
-Ở Indinesia gừng được dùng để chống mệt mỏi, ngăn ngừa và chữa trị bệnh thấp khớp và kiểm soát thói quen ăn uống nghèo dưỡng chất.
+Theo Tây y
Các nghiên cứu sơ bộ trong Tây y cho biết:
Nghiên cứu sơ bộ cho thấy 9 hợp chất tìm thấy trong gừng có thể liên kết với các thụ thể serotonin của con người có thể ảnh hưởng đến chức năng đường tiêu hóa .
Nghiên cứu thực hiện trong thử nghiệm in vitro cho thấy chiết xuất từ gừng có thể kiểm soát số lượng các gốc tự do và peroxy lipid.
Nghiên cứu sơ bộ liên quan đến tác dụng của gừng trên buồn nôn xảy ra khi mang thai cho thấy rằng uống gừng có thể gây ra ợ hơi sau khi ăn.
Trong một nghiên cứu năm 2010, tiêu thụ hàng ngày của gừng đã được hiển thị để giúp giảm đau cơ bắp kết hợp với tập thể dục 25%.
Gừng đã được xác định trong một nghiên cứu để giúp làm giảm các dấu hiệu viêm đại tràng do PGE2, do đó cho thấy một biện pháp ngăn ngừa ung thư ruột kết.
Trong các nghiên cứu hạn chế, gừng đã được tìm thấy có hiệu quả hơn so với thuốc chống buồn nôn do say sóng , ốm nghén  hóa trị liệu, mặc dù gừng không được tìm thấy tác dụng cao hơn giả dược (Placebo) khi điều trị buồn nôn sau phẫu thuật. 
Các nghiên cứu ban đầu cho thấy rằng gừng có tác động đến bệnh viêm khớp  hoặc có máu loãng và giảm cholesterol, nhưng những hiệu ứng này vẫn chưa được xác nhận.
Trong nghiên cứu sơ bộ gừng có tác dụng ngăn đục thủy tinh thể do bệnh tiểu đường thông qua các cơ chế antiglycating.
Chất Zingerone trong gừng có hoạt động chống trực khuẩn Escherichia coli gây ra bệnh tiêu chảy.
Ở Hoa Kỳ, gừng được sử dụng để ngăn chặn say sóng do tàu, xe  chống buồn nôn khi phụ nữ ốm nghén. Nó được công nhận là an toàn bởi Cục Quản lý thực phẩm và dược phẩm và được bán như là một  chế độ ăn uống bổ sung không được kiểm soát. Nước gừng cũng được sử dụng để tránh chuột rút do nhiệt do vận động thể thao.

Mộ số bài thuốc từ cây gừng

1-Ngừa cảm lạnh sau khi phải dầm mưa nhiều giờ:
Gừng sống 20g, giã nát, bỏ vào 1 ly nước sôi hoặc trà nóng cho đường vừa đủ ngọt để dễ uống, uống lúc còn nóng ngay khi vừa về tới nhà. (theo BS. Phan Xuân Trung).
2-Chữa ngoại cảm lạnh do lạnh (nấu cháo cảm):
Gừng sống 10g, hành lá 10g, tiêu sọ 10 hạt. Gạo tẻ 1 nắm nấu cháo, lúc sắp bắt xuống cho gừng sống (xắt nhuyễn) hành lá (cắt ngắn) và tiêu sọ (đâm nát) vào quậy đều. Ăn cháo lúc còn nóng. Ăn xong đắp chăn cho ra mồ hôi. (theo BS. Phan Xuân Trung).
3-Chữa trúng hàn đi tả hoặc phong hàn gây tê thấp, ho suyễn, tay chân móp lạnh:
Gừng khô tán nhỏ 5g, hòa với nước ấm hoặc nước cháo nóng mà uống. (theo BS. Phan Xuân Trung).
4-Chữa nôn mửa khi đi tàu xe:
Gừng sống cắt lát mỏng. Ngậm gừng sống nhấm nháp từng chút một, nuốt nước dần cho tới khi hết nôn. (theo BS. Phan Xuân Trung).
5-Chữa mất tiếng hoặc khan tiếng:
Củ cải trắng 2 củ, gừng sống 7 lát. Rửa sạch, giã nhuyễn vắt lấy nước cốt uống làm 2 hoặc 3 lần trong ngày. (theo BS. Phan Xuân Trung).
6-Chữa buồn nôn trong thời kỳ có thai;
Gừng sống 20g, giã nát hoặc khoảng 8g bột gừng khô. Bỏ gừng vào một ly nước sôi hoặc nước trà nóng, có thể thêm một chút đường cho dễ uống. (theo BS. Phan Xuân Trung).
7-Chữa trúng gió, tay chân tê, choáng váng, đột nhiên nói khó, liệt một bên:
Gừng sống 40g, đồng tiện 80cc. Gừng sống giã nát, cho vào một ít nước sôi, vắt lấy nước, hòa với đồng tiện uống lúc đồng tiện còn ấm.
Đồng tiện tính mát, dưỡng âm, có thể trừ phong, tan được huyết ứ, giáng hư hoả. Đồng tiện là nước tiểu "giữa dòng" của bé trai từ 2 đến 10 tuổi. Trên thực tế, để tranh thủ thời gian lúc cấp cứu, có thể sử dụng nước tiểu của người thân trong gia đình có sẳn lúc đó. Bỏ đoạn đầu, bỏ đoạn cuối, chỉ lấy đoạn giữa. Với chức năng phát tán khí huyết ra bì phu và tay chân, giáng khí, hành huyết, tiêu ứ, làm nhẹ áp lực ở vùng ngực và vùng đầu, bài thuốc "sinh khương đồng tiện” còn được kinh nghiệm dân gian sử dụng trong một số bệnh tim mạch như cơn đau vùng tim, cao huyết áp trong điều kiện không tiếp cận được thầy thuốc.
Tuy nhiên, điều cần nhớ là các triệu chứng trúng phong hoặc tim mạch không bất chợt xảy đến mà thường bắt nguồn từ những sự mất cân bằng trước đó của cơ thể. Chẳng hạn dương hư hàn thịnh, đàm trọc, huyết ứ, khí trệ… Do đó sau khi giải toả các triệu chứng cấp thời, người bệnh cần đến thầy thuốc chuyên môn để được thăm khám và điều trị thích hợp nhằm ổn định sức khoẻ lâu dài.
Cuối cùng, cũng nên nhắc lại một kinh nghiệm dân gian rất hữu ích và có thể xem như một biện pháp dưỡng sinh là ăn 1-2 lát gừng sống sau mỗi bữa ăn. Gừng sống vừa giúp kích thích tiêu hóa vừa làm mất đi những mùi thức ăn để lại trong miệng. Ngoài ra, tác dụng "hành khí" của gừng còn tác động tới sự lưu thông của khí huyết, ảnh hưởng tốt đến hệ tim mạch.
Chú ý:Gừng khô có tính nóng nên những người có thể tạng nhiệt hoặc đang có các chứng viêm nhiễm không nên dùng. (theo BS. Phan Xuân Trung).
8- Phục hồi sức khỏe sau khi bị bệnh lị vi khuẩn mạn tính
Gừng tươi 30gr đem rửa sạch, sau khi giã nhỏ, cho thêm chút nước vào đun sôi kỹ, để nước gừng còn ấm sẽ lấy khăn mặt khô sạch nhúng vào đó, vắt sơ sơ khăn rồi rửa và lau chùi khắp người, nhất là rửa và lau chùi nhiều ở bộ phận bụng ngực.
Gừng tươi tính ôn nhiệt, có tác dụng rất tốt đối với bệnh về đường ruột. Tắm rửa, lau người bằng nước đun nói trên vừa có thể trừ được hàn, thấp, lại có thể cải thiện được tuần hoàn huyết dịch, tăng cường sức chống bệnh, giúp ích cho việc phục hồi sức khỏe sau khi bị bệnh lị vi khuẩn mạn tính. (theo PTS dược học - BS Nguyễn Ninh Hải).
9-Làm ấm tỳ thận, dẫn khí lưu thông và giảm đau
Lấy gừng tươi rửa sạch, thái mỏng 9gr và phụ tử 9gr, đem rang sơ qua, hành 300gr, muối 250gr. Nghiền vụn gừng và Phụ tử rang, đắp lên rốn, ngoài băng giữ cố định. Lại lấy muối, hành cho vào nồi rang nóng, cho vào trong túi vải sạch đem là, chườm lên trên đó. Gừng và Phụ tử đã rang đều là vị thuốc có tính ôn nhiệt tốt, dùng để đắp lên rốn, sau đó lại dùng túi hành và muối đã rang để là, chườm, có thể phát huy được tác dụng làm ấm tỳ thận, dẫn khí lưu thông và giảm đau.
(theo PTS dược học - BS Nguyễn Ninh Hải).

Phát triển của nghề trồng gừng trên thế giới

Do vai trò là loại rau gia vị và dược tính quý của nó nên gừng được trồng rộng rải trên thế giới và ngày càng được nhiều người tiêu thụ ở dạng tươi, sấy khô và các sản phẩm tinh chế.
Top 10 quốc gia sản xuất gừng lớn nhất thế giới gồm có (tháng 6/2008):

Quốc gia
Sản lượng ( tấn )
380.100
331.393
192.500
174.268
170.125
152.106
72.608
 Nhật Bản
52.000
27.415
12.000
 Thế giới
1.615.974
Nguồn: FAOSTAT-2010
Từ năm 1585, Jamaica gừng gia vị phương Đông là người đầu tiên được phát triển trong thế giới mới và nhập khẩu trở lại sang châu Âu. Ấn Độ, với hơn 30% thị phần toàn cầu, bây giờ dẫn đầu trong sản xuất toàn cầu của gừng, thay thế Trung Quốc, trong đó có tụt xuống vị trí thứ hai (20,5%), tiếp theo là In-đô-nê-xi-a (~ 12,7%), Nepal (~ 11,5%) và Thái Lan (~ 10%).
Tài liệu tham khảo
4-http://ykhoa.net/yhoccotruyen/voha/vh013.htm
                                                                                                      Kỹ sư Hồ Đình Hải

Xem video: Công dụng dược liệu của củ gừng