CÂY ĐẬU XANH
Kỹ sư Hồ Đình Hải
Cập nhật ngày 12/1/2014
1-Tên gọi và danh pháp khoa học
-Tên thường gọi: Đậu xanh (Miền Nam ), Đỗ xanh
(Miền Bắc)
-Tên gọi khác: Đậu chè
-Tên tiếng Anh: Mung bean,
Moong bean, Green gram, Golden gram.
-Tên tiếng Pháp: Haricot mungo.
-Tên đồng nghĩa: Phaeolus aureus Roxb.
-Các loài tương cận:
2-Phân loại khoa học (Scientific classification)
Bộ (ordo)
|
Đậu (Fabales)
|
Họ (familia)
|
Đậu (Fabaceae)
|
Phân họ (subfamilia)
|
Đậu (Faboideae)
|
Phaseolinae
|
|
Chi (genus)
|
|
Loài (species)
|
Vigna radiata
|
Trong Hệ thống Cronquist năm 1981 và một số hệ thống phân loại
thực vật khác, bộ Đậu (Fabales) chỉ chứa
mỗi họ Đậu (Fabaceae).
Trong Hệ thống phân loại APG II (Angiosperm Phylogeny Group II) (2003):
-Họ đậu (Fabaceae)
gồm 4 Phân họ.
-Họ Viển chí (Polygalaceae) gồm 4 Phân họ.
-Họ Suyên biến (Surianaceae) gồm 1 Phân họ.
-và Họ Quillajaceae
+Họ đậu (Fabaceae)
gồm 4 Phân họ, đây là họ lớn thứ ba sau họ
Phong lan và họ Cúc,
với khoảng 730 chi và 19.400 loài.
+Phân
họ Đậu (Faboideae) với 31
Tông, trên 400 chi và hàng ngàn loài.
+Chi Đậu (đỗ) (Vigna) là một chi thực vật thuộc Phân họ Đậu (đổ). Tên Latin của chi này được
đặt theo tên của Domenico
Vigna, nhà thực vật học người Ý ở thế kỉ 17.
+Cây đậu xanh (Vigna
radiata)
được trồng trên thế giới gồm có 3 Thứ (Phân loài):
V. radiata var. grandiflora
V. radiata var. radiata
V. radiata var. Sublobata
3-Nguồn gốc và phân bố
Loài
đậu xanh (Vigna radiata) có nguồn gốc ở Ấn Độ và Trung Á, từ đó lan sang
nhiều khu vực khác của châu Á.
Bằng chứng khảo cổ theo phương pháp
Carbon phóng xạ đã phát hiện vết tích cây đậu xanh được trồng ở nhiều vùng của
Ấn Độ gồm phía đông của khu vực nền văn minh cổ Harappan ở Punjab và Haryana có
niên đại khoảng 4500 năm, và ở bang Karnataka phía Nam Ấn Độ có niên đại hơn
4000 năm. Các bằng chứng khảo cổ cũng đã kết luận cây đậu xanh được trồng
rộng rải ở Ấn Độ cách nay khoảng 3.500-3.000 năm.
Hiện nay các nhà khoa học đã tìm thấy
tổ tiên của cây đậu xanh là Phân loài Vigna radiata var. sublobata) còn mọc hoang dại ở Mông Cổ. Điều đó cho
biết Mông Cổ cũng là nơi đã thuần hóa loài cây đậu xanh từ lâu đời.
Ở Thái Lan, vết tích cây đậu xanh trồng
đã được xác định cách nay khoảng 2200 năm tại khu vực Khao Sam Kaeo ở miền nam
Thái Lan.
Ở Châu Phi, trên đảo Pemba trong thời
đại của thương mại Swahili, thế kỷ thứ 9 hoặc thứ 10, vết tích cây đậu xanh
trồng cũng đã được phát hiện.
Cây đậu xanh có khả năng thích ứng
rộng, chịu hạn khá và có thể thích nghi với các vùng có điều kiện khắc nghiệt. Ở
châu Á cây đậu xanh được trồng nhiều ở các quốc gia như: Ấn Độ, Pakistan,
Bangladesh, Sri Lanka, Nepal, Trung Quốc, Mianma, Thái Lan, Việt Nam, Campuchia,
Lào, Philippines, Malaysia và Indonesia. Sau này cây đậu xanh còn được trồng ở Trung Phi, các vùng
khô và nóng ở Nam Âu, phía Đông Bắc châu Úc, Nam Mỹ và miền Nam Hoa Kỳ. Nó được sử dụng như một thành
phần trong các món ăn mặn và ngọt.
Cây đậu xanh trồng trên thế giới thuộc
Thứ (Phân loài) phổ biến (V. radiata var. Radiata).
Ở Việt Nam
đậu xanh được
trồng trong khắp cả nước từ Bắc vào Nam . Đây là loài cây rau và thực
phẩm quan trọng và là một loại đậu có giá trị đặc biệt trong văn hóa ẩm thực
Việt Nam.
4-Mô tả
Đậu xanh hà
cây thân thảo nhỏ, mọc đứng, sống hằng niên.
-Thân: Cao 40 - 80 cm tùy thuộc vào giống và
cách trồng. Trong điều kiện canh tác tốt cây đậu càng cao cho năng suất càng
tốt (nếu không bị đỗ ngã).
-Rể: Gồm 1 rễ cái và nhiều rễ phụ. Đất xốp thoáng rễ có thể mọc sâu đến 40 cm, nhờ đó cây chịu hạn
tốt hơn. Rễ đậu xanh chịu hạn khá nhưng chịu úng rất kém, nhất là cây còn nhỏ (0
-25 ngày sau gieo). Từ 15 ngày sau khi gieo, rễ đã có nốt sần hữu hiệu cho cây.
-Cành: Cây đậu
xanh phát triển nhiều cành cấp 1 từ thân chính, một số cành cấp 1 phát triển
thêm cành cấp 2. Đa số hoa và quả phát triển trên thân chính và cành cấp 1, rất
ít quả trên cành cấp 2.
-Lá: Khi mới mọc, cây có 2 lá đơn nhỏ, sau
đó là các lá kép. Mỗi lá kép có 3
lá đơn, có lông ở cả hai mặt. Các lá ở ngọn cần thiết để nuôi trái và hạt nên phải
được chăm sóc kỹ để ngừa sâu bệnh. Hai lá đơn đầu tiên dễ bị dòi đục thân tán
công nên cũng cần xịt thuốc kịp lúc.
-Hoa: Từ 18 - 21 ngày sau khi gieo, đậu xanh
đã bắt đầu có nụ hoa nhưng nụ còn rất nhỏ, nằm khuất trong vảy nhỏ (gọi là mỏ
chim ) ở các nách lá. Nụ hoa phát triển từ các chùm hoa mọc ở kẻ lá, mỗi chùm có
16 - 20 hoa màu vàng lục, nhưng
thường chỉ đậu 3 - 8 quả. Hoa nở từ 35 - 40 ngày sau khi gieo.Hoa màu vàng lục
mọc ở kẽ lá.
-Quả: Quả đậu xanh thuộc loại quả giáp, hình
trụ thẳng, mảnh nhưng số lượng nhiều, có lông. Từ lúc nở, quả bắt đầu phát
triển và chín sau 18-20 ngày. Quả non có màu xanh, nhiều lông tơ, khi già có
màu xanh đậm và khi chín có màu nâu đen hay vàng và ít lông. Mỗi quả có khoảng
5-10 hạt.
-Hạt: Hạt hình tròn hơi thuôn, kích thước
nhỏ, đường kính khoảng 2-2,5 mm, màu xanh, ruột màu vàng, có
mầm ở giữa. Các giống thường có hạt màu xanh mỡ
(bóng) hay mốc (có những giống hạt vàng, nâu hay đen), 1000 hạt nặng 30 - 70 g.
Các giống hạt xanh bóng, có trọng lượng 1000 hạt nặng hơn 55 (g) thích hợp để
xuất khẩu. Hạt đậu xanh có nhiều giá trị dinh dưỡng. Trong 1 hạt có 24 %
protein, 2- 4 % chất béo, 50 % đường bột, nhiều sinh tố B và P.
Cây đậu xanh phát triển ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, độ
cao từ vùng đồng bằng đến 1.850 mét. Là cây đậu đỗ quan trọng đứng hàng thứ ba sau đậu nành và đậu phụng (2 loại
cây công nghiệp ngắn ngày).
5-Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng
*Theo phân tích của Bộ
Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) thì thành phần
dinh dưỡng trong hạt đậu xanh và giá đậu xanh như sau:
5.1-Thành phần
dinh dưỡng trong 100 g hạt đậu xanh khô:
Giá trị dinh
dưỡng trong 100 g hạt đậu xanh khô
|
|
1452 kJ (347 kcal)
|
|
62,62 g
|
|
- Đường
|
6,6 g
|
16,3 g
|
|
1,15 g
|
|
23,86 g
|
|
0.621 mg (54%)
|
|
0,233 mg (19%)
|
|
2,251 mg (15%)
|
|
Axit pantothenic (B 5)
|
1.91 mg (38%)
|
0.382 mg (29%)
|
|
Folate (vit.
B 9)
|
625 mg (156%)
|
4,8 mg (6%)
|
|
0,51 mg (3%)
|
|
9 mg (9%)
|
|
132 mg (13%)
|
|
6.74 mg (52%)
|
|
189 mg (53%)
|
|
1.035 mg (49%)
|
|
367 mg (52%)
|
|
1246 mg (27%)
|
|
2,68 mg (28%)
|
|
Ghi chú! Tỷ lệ % đáp ứng cho nhu cầu mỗi ngày của người lớn.
Nguồn: Cơ sở dữ liệu của USDA dinh dưỡng |
5.2-Thành phần
dinh dưỡng trong 100 g hạt đậu xanh hấp chín:
Giá trị dinh dưỡng trong 100 g hạt
đậu xanh hấp chín
|
|
441 kJ (105 kcal)
|
|
19.15 g
|
|
2 g
|
|
7,6 g
|
|
0,38 g
|
|
7,02 g
|
|
0,164 mg (14%)
|
|
0,061 mg (5%)
|
|
0,577 mg (4%)
|
|
0,41 mg (8%)
|
|
0,067 mg (5%)
|
|
159 mg (40%)
|
|
1 mg (1%)
|
|
0,15 mg (1%)
|
|
2,7 mg (3%)
|
|
27 mg (3%)
|
|
1,4 mg (11%)
|
|
48 mg (14%)
|
|
0,298 mg (14%)
|
|
99 mg (14%)
|
|
266 mg (6%)
|
|
0,84 mg (9%)
|
|
Ghi chú! Tỷ lệ % đáp ứng cho nhu cầu mỗi ngày của người lớn.
Nguồn: Cơ sở dữ liệu của USDA dinh dưỡng |
5.3-Thành phần
dinh dưỡng trong 100 g giá đậu xanh tươi:
Giá trị dinh dưỡng trên 100 g
giá đậu xanh tươi
|
|
126 kJ (30 kcal)
|
|
5,94 g
|
|
4,13 g
|
|
1,8 g
|
|
0,18 g
|
|
3.04 g
|
|
0,084 mg (7%)
|
|
0,124 mg (10%)
|
|
0,749 mg (5%)
|
|
0,38 mg (8%)
|
|
0.088 mg (7%)
|
|
61 mg (15%)
|
|
13,2 mg (16%)
|
|
0,1 mg (1%)
|
|
33 mg (31%)
|
|
13 mg (1%)
|
|
0.91 mg (7%)
|
|
21 mg (6%)
|
|
0.188 mg (9%)
|
|
54 mg (8%)
|
|
149 mg (3%)
|
|
0,41 mg (4%)
|
|
Ghi chú! Tỷ lệ % đáp ứng cho nhu cầu mỗi ngày của người lớn.
Nguồn: Cơ sở dữ liệu của USDA dinh dưỡng |
*Theo các nguồn phân
tích khác
Trong 100g ăn được, hạt đậu xanh có chứa khoảng 62-63%
carbohydrate và 16% chất xơ, 24% protein, 1% béo, , và cung cấp khoảng 340 kcal
(Wenju Liu 2007).
+Carbohydrate trong hạt đậu xanh gồm chủ yếu là tinh bột (32-43%), với lượng amylose chiếm
khoảng 19.5 - 47%. Nguồn tinh bột dồi dào trong đậu xanh đã được ứng dụng rộng
rãi vào thực tiễn sản xuất (Naomy Ohwada 2003).
Ngoài ra, trong đậu xanh còn chứa nhiều loại đường, chủ yếu
là saccharose, trong đó hàm lượng glucose chiếm ưu thế hơn so với fructose, và
một số đường khác như raffinose, arabinose, xylose, galactose (Jyoti Chopra
1998, Earl E. Watt 1977).
Thành phần
Carbonhydrate trong 100 g hạt đậu xanh khô (g/100g)
|
|
Tổng
carbohydrate
|
62.3
|
-Tinh
bột
|
54.88
|
-Đường
khử
|
4.85
|
-Raffinose
|
0.41
|
-Stachyose
|
1.49
|
Nguồn: PGS.TS Lê văn
Việt Mẫn
|
+Protein trong hạt đậu xanh
Thành phần Axit
amin trong Protein hạt đậu xanh khô
|
|
Tên axit amin
|
Hàm lượng
(mg/100g ăn được)
|
-Lysine
|
2145
|
-Methionine
|
458
|
-Tryptophane
|
432
|
-Phenylalanine
|
1259
|
-Threonine
|
736
|
-Valine
|
989
|
-Leucine
|
1607
|
-Isoleucine
|
941
|
-Arginine
|
1470
|
-Histidine
|
663
|
-Cystine
|
113
|
-Tyrosine
|
556
|
-Alanine
|
809
|
Nguồn: PGS.TS Lê văn
Việt Mẫn
|
Trong protein đậu xanh có chứa các chất kìm hãm protease làm
giảm giá trị dinh dưỡng của nó. Các chất kìm hãm thường là Kunitz và Bowman-Birk.
Kunitz là chất kìm hãm trypsine, còn Bowman-Birk có hai trung tâm hoạt động có
thể kìm hãm cả trypsine và chymotrypsine. Chất ức chế sẽ bị vô hoạt bởi nhiệt,
gia nhiệt bằng hơi ẩm sẽ hiệu quả hơn là sấy. Đun trong nước sôi khoảng 20 phút
sẽ vô hoạt hầu hết chất ức chế trypsin. Bên cạnh đó, trong protein đậu còn chứa
hemagglutinin hay còn gọi là lectin, có khả năng tạo phức khá bền vững với
glucid. Tương tác giữa các lectin với các glucoprotein có mặt trên bề mặt các
hồng cầu sẽ làm ngưng kết các tế bào này gây hiện tượng đông tụ máu. Tuy nhiên
chúng cũng dễ dàng bị phân hủy bởi nhiệt nên không ảnh hưởng đến giá trị dinh
dưỡng của đậu xanh khi nấu chín.
+Hàm lượng lipid trong hạt đậu xanh rất thấp nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của hạt,
bột và sản phầm chế biến từ hạt đậu.
Chất béo của hạt đậu xanh có giá trị sinh học tương đối cao
vì trong thành phần của nó có 20 acid béo trong đó chứa nhiều acid béo chưa no
không thay thế như acid linoleic và acid linolenic. Ngoài ra trong đậu
xanh còn có một lượng đáng kể các chất phophatit. Tuy nhiên, do đặc điểm
chứa nhiều acid béo chưa no nên chất béo của hạt dễ bị oxy hóa tạo ra mùi ôi
khó chịu, vì vậy trong quá trình chế biến cần quan tâm đến vấn đề này.
+Hàm lượng Vitamin và chất khoáng trong hạt đậu xanh: Đậu xanh có nguồn vitamin khá đa dạng như A, B1, B2, C,
niacin và muối khoáng tập trung chủ yếu ở phần vỏ hạt gồm có Na, K, Ca, P, Fe,
Cu (Hozayn M. 2007, P. Nisha 2005). Ngoài ra trong hạt đậu xanh còn chứa các
enzym như lipase, transferase, hydrolase, lipoxygenase….
Hàm lượng
Vitamin và chất khoáng trong hạt đậu xanh
(mg/100g ăn
được)
|
|||
Vitamin
|
Chất khoáng
|
||
Thành phần
|
Hàm lượng
|
Thành phần
|
Hàm lượng
|
Vitamin
B1
|
0.72
|
Na
|
6
|
Vitamin
B2
|
0.15
|
K
|
1132
|
Vitamin
C
|
4
|
Ca
|
64
|
Vitamin
PP
|
2.4
|
P
|
377
|
Fe
|
4.8
|
||
Cu
|
0.76
|
||
Nguồn: PGS.TS Lê văn
Việt Mẫn
|
6-Công dụng của cây đậu xanh
Công dụng chính của cây đậu xanh là hạt đậu đã chín. Do có
thành phần dinh dưỡng cao, không độc và có nhiều tác dụng dược liệu nên hạt đậu
xanh đã được khai thác trong ẩm thực và dược liệu từ lâu đời.
Ở các nước khác đậu xanh đậu xanh được chế biến thành nhiều
loại thực phẩm rất phong phú.
6.1-Hạt đậu xanh dùng làm thực phẩm
a-Hạt đậu xanh dùng trong các món nấu ăn:
Quan niệm của người Châu Á là vỏ của hạt đậu xanh có nhiều
chất bổ dưỡng hơn cả thịt hạt. Vỏ đậu xanh
giúp giảm bớt mờ mắt, vì vậy nhiều người thường nấu cả vỏ, không bỏ đi. Việc
dùng đậu xanh tách bỏ vỏ chỉ là thẩm mỹ về màu sắc trong ẩm thực.
Hạt đậu xanh còn nguyên vỏ hoặc đã tách vỏ được chế biến
theo nhiều món ăn sau đây:
+Cháo đậu xanh: Người Trung
Quốc và Việt Nam thường ăn điểm tâm bằng các loại cháo, như cháo thịt, cháo cá
nhưng trong đó thông dụng nhất là cháo đậu xanh, bởi tính nhẹ nhàng thanh sạch
và tác dụng giải độc cho cơ thể. Cháo đậu xanh có hai dạng:
- Cháo đậu xanh đơn giản: Được nấu
bằng cách dùng hạt đậu xanh còn nguyên vỏ nấu chung với gạo. Cháo đậu xanh có
tác dụng thanh nhiệt, giải cảm, thường dùng cho người đang dưỡng bệnh, người
già…
Ở các nước Đông Nam Á và Ấn Độ đôi khi cháo đậu xanh được
nấu với nước cốt dừa để dùng điểm tâm cho người khỏe mạnh.
- Cháo đậu xanh nấu với thịt:
Là món cháo phổ biến, có chất lượng tốt khi nấu với các loại thịt như gà, vịt,
ngỗng, bò, chó, trâu, rắn, rùa…Thịt nấu cháo đậu xanh có cả gạo và đậu xanh.
+Thịt hầm đậu xanh:
Thịt hầm đậu xanh khác với cháo là chỉ dùng thị còn xương nấu với đậu xanh còn
nguyên vỏ. Thịt hầm đậu xanh thường nấu với xã bầm, món này phổ biến ở Việt Nam ,
Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.
+Đậu xanh hấp:
Món đậu xanh nguyên vỏ được ngâm trương nước và hấp được dùng phổ biến ở Ấn Độ
và Philippines .
Ở Tamil
Nadu và Andhra
Pradesh (Ấn Độ), đậu xanh còn vỏ hấp được tẩm với các loại gia
vị và dừa nạo tươi trong món ăn khai vị gọi là Sundal.
+Đậu
xanh hầm: Là món ăn truyền thống ở Philippines . Món này được nấu từ
đậu xanh còn nguyên vỏ với tôm, cá được gọi là mongo guisado.
Theo truyền thống món này được phục vụ
vào các buổi tối thứ Sáu, như phần lớn dân số Philippines là Công
giáo La Mã kiêng thịt vào ngày thứ Sáu trong Mùa Chay.
Mòn đậu xanh hầm với thịt ở Philippines
được gọi là Ginisang monggo được dùng ở các ngày thường.
+Cơm nếp đậu xanh: Ở Việt Nam ,
Lào, Trung Quốc và Ấn độ thường nấu món cơm nếp vớt dậu xanh nguyên vỏ. Do đậu
xanh lâu mềm nên được nấu trước, sau đó đổ gạo nếp vào trộn đều và nấu chung.
+Xôi đậu xanh: Xôi là gạo nếp được hấp cách thủy khác với cơm nếp
được nấu từ gạo nếp trực tiếp trong nước. Xôi đậu xanh là dùng đậu xanh nguyên
vỏ hoặc tách vỏ trộn với gạo nếp để hấp.
+Xôi vò: Là xôi được trộn với đậu xanh đã tách vỏ được nấu chín và
vò nát. Xôi vò có màu vàng do bột hạt đậu áo vào hạt nếp đã chín. Xôi vò là món
ăn truyền thống của người Việt Nam
trong các mâm cổ tết, đám tiệc đầy tháng, thôi nôi của trẻ em, đám giổ, cúng
đình…
+Chè đậu xanh: Chè là món ăn ngọt được nấu từ gạo nếp với đậu xanh,
chè có thể nấu từ đậu xanh nguyên vỏ với gạo nếp (chè nếp). Ở Ấn Độ và Philippines
chè nếp thường được nấu với nước cốt dừa.
Chè đậu xanh có thể không nấu với
gạo nếp mà nấu với các loại rong biển, bột bán xắt khía và hạt trân châu (làm
từ bột bán, bộ năng, bột khoai mì…gọi là che thưng.
Chè thưng có thể được ăn nóng hay
ăn với đá lạnh, hay để trong tủ lạnh trước khi ăn. Ở Việt Nam, Trung Quốc, Ấn
Độ và Philippines chè thưng được dùng để ăn chơi như món giải khát và các quán
nước đường phố thường bán loại chè này cùng với sinh tố, nước ép trái cây…
+Sinh tố đậu xanh: Hạt đậu xanh tách vỏ, nấu chín dùng để xay sinh
tố với rau má là thức uống rất bổ dưỡng và được nhiều người ứ thính nhờ hương
vị thơm ngon của nó.
b-Hạt đậu xanh bốc vỏ dùng làm nhân
bánh
Ở các nước châu Á hạt đậu xanh
bốc vỏ bằng cách ngâm nước, khi hạt trương nước vỏ nứt ra, đảy trong nước vỏ
tác ra khỏi hạt và nổi lên phía trên, dùng giá, rổ vớt vỏ còn lại phần thịt hạt
màu vàng.
Ở Việt Nam hạt đậu xanh bốc vỏ có
thể được dùng làm nhân bánh được gói trực tiếp trong gạo nếp như bánh dày, bánh
chưng, bánh tét, bánh ú, bánh lá dừa…Do thời gian hấp bánh lâu nên hạt đậu tự
rả và đóng thành khối trong nhân bánh.tét nhân đậu xanh, bánh lá dừa…
Dạng bột đậu xanh bốc vỏ nấu chín
và nghiền nát được dùng làm nhân bánh rất phổ biến ở Châu Á.
Đạng này ở Việt Nam có bánh ít,
bánh ít trần, bánh vò (Miền Bắc), bánh da lợn, bánh cuốn, bánh bèo…
Loại hạt đậu xanh nấu tán nhuyển
có tẩm đường dược dùng làm nhân các loại bánh ngọt để lâu như bánh in, bánh lột
da, bánh nậm, bánh đậu xanh Hải Dương, bánh trung thu…rất phổ biến ở Việt Nam .
Bánh Trung Thu nhân đậu xanh cũng
là sản phẩm độc chiêu của Trung Quốc.
c-Hạt đậu
xanh vừa nẩy mầm làm nhân bánh và thức ăn:
Khác với giá đậu xanh, hạt đậu xanh vừa nẩy mầm (nứt nanh)
được sử dụng để chế biến món ăn ở một số nước Châu Á:
Ở Việt Nam
hạt đậu xanh nguyên vỏ ngâm vừa nứt nanh được hấp để làm nhân bánh cống, đặc
biệt là bánh cống Cần Thơ.
Ở Trung Quốc và Hàn Quốc đậu xanh nứt nanh cũng được hầm với
các vị thuốc Bắc để dùng như các thức ăn tẩm bổ.
d-Giá đậu xanh, một loại rau tuyệt vời
Đa số các nước trên thế giới đều dùng hạt đậu xanh nguyên vỏ
đề ủ giá. Giá đậu xanh là món rau truyền thống ở Việt Nam , đặc biệt ở Nam Bộ. Các chợ rau
và các quầy rau trong siêu thị luôn có bày bán giá tươi.
Cách ủ giá truyền thống của Việt Nam là dùng tro trấu hay tro dừa để
ủ giá là một cách sản xuất rau an toàn. Nhưng hiện nay vì lợi nhuận, các lò ủ
giá dùng chất kích thích (GA3) và một số chất kích thích sinh trưởng không rõ
nguồn gốc từ Trung Quốc rất nguy hiểm, tốt nhất nên ủ giá theo cách truyền
thống để dùng trong gia đình.
Ở Việt Nam
giá đậu xanh được dùng làm rau ăn theo nhiều cách:
-Dùng ăn sống trực tiếp: rất phổ biến trong bữa cơm gia đình.
Các món hủ tiếu, phở, bún riêu, bún ốc, bánh canh, luôn được ăn kèm với giá
sống hay giá trụng
-Dùng làm món xào: Có thể xào với hẹ, nấm, rong biển, tàu hủ
trong các món ăn chay, hoặc xào với tôm, cua, mực, trứng, thịt trong các món ăn
mặn. Nhân bánh xèo, bánh cống ở Nam Bộ luôn có giá đậu xanh.
-Dùng trong các món nấu: Giá đậu xanh là món không thể thiếu
trong canh chua Nam
bộ.
-Dưa giá: Giá đậu xanh và hành muối dưa chua là món ăn đặc biệt
của ngày tết cổ truyền ở Việt Nam ,
Trung Quốc. Dưa giá có thể ăn trực tiếp như cải dưa hoặc xào, nấu như giá sống.
e-Rau mầm từ đậu xanh
Do hạt đậu xanh mọc mầm
nhanh, đồng loạt và tỷ lệ nẩy mầm cao (gần 100%) nên được dùng để trồng rau mầm
rất đạt hiệu quả. Rau mầm có thể ăn sống, xào, nấu đều rất ngon và bổ dưỡng.
Hiện nay nhiều nước đã phát triển rau mầm như một nguồn rau sạch và an toàn,
trong đó chủ yếu là rau mầm tù hạt đậu xanh.
6.2-Hạt đậu xanh dược dùng làm thuốc
Đậu xanh không chỉ là thực phẩm mà còn là thuốc chữa bệnh.
Trong cả Đông y và Tây y, đậu xanh là một vị thuốc bổ có tác
dụng chữa nhiều bệnh.
+Theo Đông y:
Đậu xanh có vị ngọt, hơi tanh, tính mát, không độc, có công dụng thanh nhiệt, mát gan, điều hòa ngũ tạng, bổ nguyên
khí, giải được nhiều thứ độc, có thể làm sạch mát nước tiểu, chữa lở loét, làm
sáng mắt, nhuận họng, hạ huyết áp, mát buồng mật, bổ dạ dày, hết đi tả, thích
hợp với các bệnh nhân say nắng, miệng khát, người nóng, thấp nhiệt, ung nhọt,
viêm tuyến má, đậu mùa, nhìn mọi vật không rõ.
Đậu xanh thường được sử dụng dưới dạng nấu cháo ăn hoặc nấu
nước uống khi bị cảm sốt vào mùa hè, trúng nắng, tiêu khát (khát nước uống
nhiều), ngộ độc thức ăn hoặc dược thảo, đái tháo đường, đi tiểu khó, đau bụng
do nhiệt, bụng nóng cồn cào, buồn phiền khó chịu, nhức đầu, nôn mửa, phụ nữ có
thai bị nôn ọe, không yên. Đậu xanh cũng có thể dùng để chữa bệnh tăng huyết áp
và chống viêm nhiễm.
Bên cạnh đó, đậu xanh còn có ích cho người hay bị các loại
bệnh nhiệt ngoài da như mụn nhọt, ghẻ lở, nổi mề đay; người bị cao huyết áp,
cholesterol máu cao, viêm gan mãn tính, say rượu; trẻ em bị bệnh quai bị, sởi…
Tác dụng thanh nhiệt giải độc của vỏ đậu xanh còn cao hơn
thịt hạt đậu.
+Theo Tây y
Các nghiên cứu khoa học ngày càng đưa ra nhiều kết quả
cho thấy tác dụng tích cực của đậu xanh đối với sức khỏe con người. Do
đó, ngày nay đậu xanh được mệnh danh là “Thực phẩm của tương lai”.
Theo y học hiện đại, đậu xanh có thành phần dinh dưỡng rất
cao. Bên cạnh thành phần chính là protid, tinh bột, chất béo và chất xơ, đậu
xanh chứa rất nhiều vitamin như vitamin E, B1, B2, B3, B6, C, tiền vitamin A,
vitamin K, acid folic; và các khoáng tố gồm Ca, Mg, K, Na, Zn, Fe, Cu, …
Đậu xanh là loại thức ăn nhiều kali, ít natri. Người thường
xuyên ăn đậu xanh và chế phẩm của đậu xanh huyết áp sẽ giảm. Trong đậu xanh còn
có thành phần làm hạ mỡ máu hữu hiệu, giúp cho cơ thể phòng chống chứng xơ cứng
động mạch và bệnh cao huyết áp, đồng thời có công hiệu bảo vệ gan và giải độc.
Đậu xanh còn là nguồn cung cấp chất xơ hòa tan. Chất này đi
qua đường tiêu hóa, lấy đi những chất béo thừa và loại bỏ khỏi cơ thể trước khi
hấp thụ, nhất là cholesterol. Do đó, ăn cháo đậu xanh thường xuyên giúp người
béo kiềm chế sự thèm ăn và giảm lượng chất béo nguy hiểm cho cơ thể. Đồng thời
đậu xanh giúp ổn định lượng đường trong máu sau bữa ăn nên rất tốt cho người
bệnh tiểu đường.
Ngoài ra, vỏ đậu xanh có chứa nhiều hoạt chất thuộc nhóm
flavonoid, có tác dụng ức chế sự tăng trưởng của các tế bào ung thư đặc biệt là
làm giảm nguy cơ ung thư vú và tuyến tiền liệt. Nghiên cứu cho thấy phụ nữ gốc
Tây Ban Nha tỷ lệ ung thư vú chỉ bằng ½ so với phụ nữ da trắng do thường sử
dụng đậu xanh trong chế độ ăn hàng ngày.
Các chuyên gia dinh dưỡng tại Đại học Kentucky
ở Lexington
(Mỹ) và là tác giả của chương trình “Magic Bean” - hạt đậu xanh kỳ diệu đã thực
hiện rất nhiều nghiên cứu về lợi ích của đậu xanh. Kết quả ghi nhận là nếu ăn
một chén cháo đậu xanh nấu chín mỗi ngày có thể hạ thấp 20% lượng cholesterol
trong 3 tuần, nguy cơ mắc bệnh tim mạch và huyết áp giảm 40%. Chất xơ trong đậu
xanh còn có khả năng loại bỏ các độc tố trong cơ thể, do đó giúp ngăn ngừa
chứng ung thư ruột kết.
7-Một số bài thuốc Đông y từ hạt và giá đậu xanh
Sau đây là một số bài thuốc Đông y từ hạt và giá đậu xanh:
1- Chữa trúng nóng, sốt:
-Dùng lượng đậu xanh vừa phải nấu canh, cho thêm chút đường,
ăn khi còn ấm. Cũng có thể dùng 60 g đậu xanh nấu canh cho thật nhừ, vớt đậu
ra, cho vào nồi mấy cái hoa mướp tươi, đun sôi, ăn khi còn ấm. (Theo Trung Quốc diệu dụng đại toàn).
- Dùng 30 gam đỗ xanh nấu với 9 g ma hoàng để ăn. (Theo suckhoe.24h.com).
2. Chữa say nắng:
-Đậu xanh 100g , vo sạch, cho vào nồi, đổ ngập nước đun sôi
qua, chắt lấy nước, để nguội rồi uống. Lưu ý: không nấu quá kỹ sẽ làm mất tác
dụng. (Theo kinh nghiệm dân gian).
-Sắc vỏ đậu xanh thật đặc uống trị trúng nắng rất công hiệu (Cổ Phương).
2- Gây nôn khi ngộ độc thức ăn: Ngâm đậu xanh trong nước cho đến khi
đậu nở, nghiền nát đậu hòa với nước ngâm rồi lấy nước đó cho người bệnh uống. (Theo Trung
Quốc diệu dụng đại toàn).
3. Chữa buồn nôn: Dùng 16g đậu xanh, đường phèn 16g, sắc nước
uống. Hoặc dùng 100 hạt đậu xanh, hồ tiêu 10 hạt, trộn đều rồi nghiền mịn, pha
vào nước sôi để uống. (Theo kinh nghiệm dân gian).
4-Chữa
ỉa chảy nôn mửa: Đậu xanh rang vàng 100g, muối rang 10g, hạt tiêu 50g. Tán bột trộn chung
cho đều cất kín vào trong lọ. Người lớn mỗi lần uống 7g, cách nhau 3giờ. (Theo
kinh nghiệm dân gian).
5- Chữa viêm đường ruột: Những người bị kiết lị, viêm ruột có thể
lấy bột đậu xanh trộn đều với nước mật lợn, để khô, cho ít nước ấm vào nhào đều
rồi sao vàng lên, sau đó nghiền thành bột mịn, chia 3 lần uống trong ngày. (Theo Trung Quốc diệu dụng đại toàn).
6-Hổ trợ điều trị bệnh dạ dày: Để dễ tiêu
hóa và tốt cho dạ dày, mỗi ngày có thể sử dụng khoảng 50-100g đậu xanh nấu nhừ
ở dạng cháo. Có thể thay đổi khẩu vị bằng cách ăn với đường, muối hoặc nấu với
thịt và rau củ quả đều tốt cho sức khỏe. (Theo D.S Lê Kim Phụng).
7- Giải trừ chất độc khi ngộ độc thức ăn: Hòa bột đậu xanh với
nước sôi để nguội, cho người bệnh uống 1 cốc. Cũng có thể dùng 100 g đậu xanh,
100 g cam thảo sống, cho ít nước vào đun, uống ngày 2 lần. (Theo Trung Quốc diệu dụng đại toàn).
8-Giải
say rượu:
Nấu cháo đậu xanh để nguội, cho ăn liền vài bát hoặc nhai một nắm lá sống đã
rửa sạch thật kỹ rồi nuốt. (Theo kinh nghiệm dân gian).
9- Chữa bí tiểu: Ăn canh đậu xanh. Nếu đau rát bỏng ở đường niệu, có thể dùng 500 g giá đậu
xanh giã nát lấy nước, cho thêm đường vào uống. (Theo Trung Quốc diệu dụng đại toàn).
10- Chữa nhiễm trùng đường niệu: Ép
giá đậu xanh lấy nước uống, sẽ có tác dụng tốt ngay. (Theo Trung Quốc diệu dụng đại toàn).
11- Chữa rôm sảy, ngứa ngáy: Lấy 15 g
bột đậu xanh, 30 g bột hoạt thạch nghiền vụn, trộn đều để xoa lên những chỗ bị
rôm sảy thay cho phấn rôm. Khi bị ngứa ngáy khó chịu, có thể lấy một tàu lá sen
tươi thái nhỏ nấu với chút đậu xanh để ăn. Có thể dùng nước này uống thay nước
trà cho đến khi hết ngứa. (Theo Trung
Quốc diệu dụng đại toàn).
12. Chữa ho, khản cổ: Giá đỗ xanh từ
300-500g, rửa sạch, giã nát, đổ thêm chút nước đun sôi để nguội vào, chắt lấy
nước uống. (Theo kinh nghiệm dân gian).
13. Chữa lên sởi: Dùng 15g vỏ đậu xanh,
sắc với nước chia ra uống thay nước hàng ngày. Để dễ uống có thể bỏ thêm
một chút đường. Uống đều đặn cho đến khi bệnh khỏi.
14- Chữa dị ứng sơn: Đậu xanh sống 100
g, rửa sạch, ngâm vào nước trong 12 giờ, lấy ra giã nát thành dạng vữa, cho
thêm 30 g nhãn đông đằng (vị thuốc Trung y) đã nghiền nát, trộn đều, đắp vào
chỗ bị lở sơn ngày 1 - 2 lần.
Cũng có thể lấy đậu xanh sống 100 g, hạt bo bo sống 50 g,
táo tàu 7 quả. Tất cả rửa sạch, cho thêm chút nước vào ninh nhừ, cho 50 g đường
trắng vào uống hết một lúc. Mỗi ngày uống một lần, liên tục trong 4-5 ngày là
khỏi. (Theo Trung Quốc diệu
dụng đại toàn).
15- Chữa trúng độc hơi than: Khi buồn
nôn, nôn mửa do trúng độc hơi than, có thể nấu canh đậu xanh lên ăn hoặc lấy 30
g bột đậu xanh hòa với nước sôi uống. (Theo Trung
Quốc diệu dụng đại toàn).
16. Chữa trúng độc chì: Dùng 120g đậu
xanh, 15g cam thảo, sắc với nước, ngày uống hai lần, cần uống liên tục trong 15
ngày. Trong quá trình điều trị, nên uống bổ sung vitaminC. (Theo lohha.com.vn).
17. Chữa bệnh quai bị: Dùng 60g đậu xanh
cho vào nồi nấu với nước đến khi đỗ chín, cho thêm 2-3 nõn rau cải trắng vào
đun tiếp khoảng 15-20 phút rồi chắt lấy nước uống. (Theo kinh nghiệm dân gian).
18. Chữa đái tháo đường: Đậu xanh 200g,
lê 2 quả, củ cải 250g, nấu thành món ăn hàng ngày. (Theo kinh nghiệm dân gian).
19. Phụ nữ ra huyết trắng quá nhiều: Đậu
xanh 500g, mộc nhĩ đen 100g, trộn lẫn sau đó nghiền thành bột mịn pha nước uống
ngày hai lần. (Theo kinh nghiệm dân gian).
20-Hạt đậu xanh làm đẹp cho phụ nữ: Hạt đậu xanh còn có tác dụng làm đẹp cho chị em rất hiệu quả. Dưới đây là một số phương pháp
làm đẹp từ đậu xanh.
- Cách 1: Dùng một lượng đậu xanh vừa đủ tán thành bột mịn.
Mỗi buổi tối trước khi đi ngủ lấy 30 g bột này khuấy với nước ấm thành dạng hồ,
chờ khi nguội thoa lên mặt. Làm liên tiếp nhiều ngày như thế sẽ có công dụng
thanh nhiệt, giải độc, thích hợp dùng chữa mụn trứng cá.
- Cách 2: Lấy 20 g bột đậu xanh, 20g bột thanh đại và 2 g
băng phiến cho vào nước ấm trộn thành hồ. Mỗi tối trước khi đi ngủ đắp dung
dịch này lên vùng mặt, sẽ có tác dụng dưỡng nhan, đẹp da, dùng cho các “sĩ tử”
khi tiều tụy vì học thi, đặc biệt tốt với các người hay thức đêm! (Theo D.S Lê Kim Phụng).
6.4-Các công dụng khác của cây đậu xanh
+Sản xuất tinh bột
đậu xanh thô
Bộ đậu xanh thô có thể sản xuất bằng cách trực tiếp xay hạt
khô hoặc đâm hạt khô để tách vỏ xảy bỏ vỏ rồi xay. Để bảo quản lâu có thể rang
hạt rồi xay.
Bột đậu xanh thô được đun trong nước nóng và pha với đường
dùng cho trẻ em và người lớn uống đều tốt. Uống bột đậu xanh thô điểm tâm vào
buổi sáng hay buổi tối đều tốt.
+Sản xuất tinh bột đậu xanh
Tinh bột được
chiết xuất từ hạt đậu xanh ở Trung Quốc và Ấn Độ được sử dụng trong công nghệ
thực phẩm để làm bún tàu, loại bún này khi nấu chín không tan rã như các loại
tinh bột khác. Được dùng với tên gọi là miến đậu xanh (bún tàu) trong các món
bún Trung Quốc (Fensi, tung hoon).
Tinh bột đậu xanh còn được dùng
làm món thạch đậu xanh ở miền Nam Trung Quốc liangfen, (có nghĩa là thạch đậu xanh
ướp lạnh), đó là thực phẩm rất phổ biến trong mùa hè. Jidou
liangfen là một thương hiệu của thạch đậu xanh thực
phẩm ở Vân Nam .
Thạch đậu xanh cũng được làm chất keo độn cho sa tế tương ớt.
Ở Hàn Quốc, một loại thạch đậu xanh gọi
là nokdumuk (hay cheongpomuk)
được làm từ tinh bột đậu xanh, một thạch tương tự có màu vàng do bổ sung dịch cây
sơn màu, được gọi là hwangpomuk.
Ở Andhra
Pradesh (Ấn Độ) tinh bột đậu xanh cũng được chết biến thành loại
"giấy bóng kính" để bọc bánh, kẹo và thực phẩm khô, vừa đẹp mắt, vừa
ăn được và an toàn.
+Đậu
xanh dùng làm cây thức ăn chăn nuôi
Ở Úc nghiên cứu trồng đậu xanh làm thức
ăn chăn nuôi đại gia súc và Kanguru có hiệu quả hơn các loại đậu khác. Lượng
hạt giống sạ lấp theo hàng là 6 kg/ha, hàng cách hàng 50 cm, cây cách cây 20-30
cm. Khi cây ra hoa rộ sản lượng chất khô là 1.800 kg.
Gia súc ăn bột thân, lá đậu xanh không
độc so với đậu nành và các loại đậu khác.
7-Kỹ thuật trồng đậu xanh
Đậu xanh là cây trồng có thời gian sinh
trưởng ngắn, chỉ khoảng 60-70 ngày. Trồng đậu xanh có ưu điểm tiết kiệm được
nguồn nước tưới nên phù hợp với những vùng có nguy cơ bị hạn. Ngoài ra, trồng
đậu xanh xen canh hoặc luân canh còn giúp cải tạo tăng độ phì cho đất.
Do có thời gian sinh trưởng ngắn (60-70 ngày) và cho giá trị
kinh tế cao nên cây đậu xanh là loại hoa màu rất thích hợp cho vùng canh tác
một vụ màu trên đất trồng lúa ở các tỉnh vùng ĐBSCL.
Đậu xanh tuy dễ trồng, song để có năng suất,
chất lượng cao, nông dân cần phải áp dụng một số biện pháp kỹ thuật phù hợp để
đạt được hiệu quả kinh tế cao.
Để thành công trong việc canh tác cây đậu xanh cần chú ý
những khâu kỹ thuật sau:
7.1-Đặc điểm sinh trưởng và phát triển của đậu
xanh:
Sinh trưởng của đậu xanh gồm 4 thời kỳ
sau:
7.1.a- Thời kì mọc mầm:
Đậu xanh là cây ưa ấm, nhiệt độ thích
hợp cho đậu nảy mầm phải trên 200C, độ ẩm đất khoảng 75 - 80%.
Hạt đậu xanh là loại hạt có kích thước
nhỏ (trọng lượng 1.000 hạt chỉ đạt 50-65 g), là loại hạt dể trương nước và tốc
độ nảy mầm rất nhanh. Nếu gặp điều kiện thuận lợi, đậu xanh có thể mọc đều
khoảng 3-4 ngày sau gieo, tùy thuộc vào điều kiện trương nước và yếu tố thời
tiết. Khi gieo hạt nên gieo hạt khô, hạt sẽ hút nước trong đất, khi đủ nước hạt
sẽ nẩy mầm, khi chưa đủ nước hạt sẽ chờ để nẩy mầm khi có đủ nước. Không nên
ngâm hạt trước, vì khi ngâm hạt có đủ nước sẽ nẩy mầm ngay và sau khi gieo mầm
đã mọc nhưng thiếu nước cây sẽ chết.
Hạt mọc trước hết xuất hiện 2 lá đơn
mọc đối, sau đó là các lá kép mọc đối, mỗi lá kép có 3 lá chét.
7.1.b-Thời
kì cây con:
Từ khi mọc đến khi cây bắt đầu có hoa
là khoảng 30 - 35 ngày.
Ở giai đoạn đầu, đậu xanh cần dinh
dưỡng (N, P, K) để hoàn thiện thân lá và bộ rễ, giai đoạn khoảng trên dưới 30
ngày (trước và sau ra hoa) cây đậu xanh có thể tự dưỡng nhờ vi khuẩn cố định
đạm ở nốt sần.
Sự hình thành nốt sần bắt đầu từ khi
cây đậu đã hình thành lá chét, cho đến khi ra hoa (khoảng 20-30 ngày sau gieo),
nốt sần là nơi cố định đạm, nhờ có nốt sần, đậu xanh không cần bón nhiều phân
đạm. Cần tác động các biện pháp kỹ thuật như: bón phân, phòng trừ sâu bệnh tạo
điều kiện cho nốt sần hình thành sớm và nhiều.
Thời kì cây con đậu xanh sinh trưởng
chậm. Các biện pháp kỹ thuật canh tác tạo điều kiện cho cây sinh trưởng thuận
lợi và nhất là cần phải tránh sâu bệnh làm chết cây sẽ làm giảm mật độ cây thu
hoạch do đó làm giảm năng suất.
7.1.c- Thời kì ra hoa, đậu quả
Thời kỳ ra hoa, đậu quả khoảng 20 ngày.
-Quá
trình nở hoa: Đậu xanh có thời gian ra hoa kéo dài và không có đợt hoa rộ rõ rệt như ở
lạc và đậu tương. Thời gian ra hoa kéo dài và quả phát dục nhanh (từ khi hoa nở
đến quả chín chỉ khoảng 15-17 ngày) nên đậu xanh phải thu nhiều lần - đây là
nhược điểm của đậu xanh vì công thu hoạch cao.
-Vị
trí hoa và quả đậu xanh: Hoa đậu xanh mọc thành chùm hoa
tự, mỗi hoa tự có thể có 10-15 hoa, nhưng chỉ đậu khoảng 2-5 quả chín cho thu
hoạch. Hoa
tự mọc ở nách lá. Những giống cải tiến hiện nay có đặc điểm quan trọng là:
cuống hoa tự ở vị trí thấp dài hơn cuống hoa tự ở vị trí cao nên các hoa và quả
đậu xanh tạo thành tầng quả vượt lên trên tầng lá. Đặc điểm này rất có lợi cho
chăm sóc và thu hoạch.
-Sinh
trưởng thân lá: Thời kì này, cùng với quá
trình ra hoa, kết quả là sự sinh trưởng mạnh của các bộ phận sinh dưỡng (cây
tăng nhanh chiều cao thân và cành do đó số lá, diện tích lá cũng tăng nhanh).
Lượng chất khô tích luỹ trong thời kì này là lớn nhất, cho nên thời kì này cũng
đòi hỏi nhiều dinh dưỡng nhất cho cây phát triển.
7.1.d-Thời kì thu hoạch:
Từ thu lần 1 đến thu hết:
Thời gian khoảng 10 - 20 ngày.
Thời gian của thời kì này
phụ thuộc vào số lần thu hái và khoảng cách giữa 2 lần thu. Các giống địa
phương thường phải hái ngay khi chín, nếu thu hái không kịp quả dễ bị tách vỏ,
văng hạt nên thường phải thu hái hàng ngày hoặc cách 1 ngày (cách nhật).
Giống cải tiến thường có
vỏ quả dầy, khi chín khó tách vỏ hơn nên khoảng cách giữa 2 làn thu khoảng 3-5
ngày. Đặc điểm này đã giảm nhiều công thu hái. Kéo dài thời gian thu hoạch và
tăng số lần thu hái là một khâu kĩ thuật cơ bản tăng năng suất đậu xanh.
Muốn tăng số lần thu hái,
cần phải duy trì bộ lá xanh. Nếu bộ lá tàn sớm thì sẽ giảm số lần hái, thời
gian này bị rút ngắn và sản lượng các lần hái sau cũng kém.
7.2-Các giống đậu xanh trồng ở Việt Nam
Đậu xanh là một loại cây thực phẩm ngắn
ngày có khả năng thích ứng rộng trên nhiều vùng, miền khác nhau. Trước đây cây đậu xanh
địa phương có thời gian sinh trưởng dài, mỗi năm chỉ thích hợp trồng một vụ. Ví
dụ giống đậu xanh Long Khánh chỉ thích hợp ở Miền Đông Nam bộ và chỉ được trồng
vào cuối mùa mưa.
Hiện nay giống đậu xanh cải
tiến được tuyển chọn, có thời gian sinh trưởng chỉ
khoảng 65- 70 ngày. Tại
miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên đậu xanh có thể canh tác trong 3 vụ chính là Hè
Thu (tháng 5-8), Thu Đông (tháng 5-11), Đông Xuân (giữa tháng 11-2). Ở ĐBSCL đậu xanh có thể được trồng
quanh năm.
Có nhiều giống đậu xanh
cho năng suất cao, chất lượng ngon, có thể kháng được nhiều loại sâu, bệnh hại
nguy hiểm và có khả năng thích nghi cao. Một số
giống phổ biến:
1- Giống V 87-13: Giống này có
chiều cao trung bình từ 50-60cm, phân cành tốt, khả năng tái tạo bộ lá mạnh, vì
vậy, sau khi thu hoạch nếu cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng, cây đậu xanh sẽ cho
thêm một đợt bông thứ hai với năng suất vào khoảng 50-60% đợt đầu. Giống V87-13
có hạt đóng kín khá đều, tương đối lớn, màu xanh thích hợp với thị hiếu người
tiêu dùng và xuất khẩu. Năng suất trung bình vào khoảng 1,2 tấn/hécta. Đậu xanh
tốt có thể đạt 2 tấn/hécta. Khả năng chống chịu đối với bệnh khảm vàng do virus
và bệnh đốm lá ở mức trung bình.
2- Giống
HL89 E3: Đây là giống có tính thích nghi rộng thích hợp trên nhiều chân
đất, hạt đóng khít, dạng hình oval, màu xanh mỡ rất đẹp. Trọng lượng 1.000 hạt
khoảng 50 - 53g. Đặc điểm của 2 giống V87-13 và HL89 E3 là hạt không bị chuyển
màu nếu gặp mưa trong quá trình thu hái.
3- Giống
91-15: Giống này cây cao trung bình khoảng 60-65cm, phơi bông nên rất thuận
tiện cho công tác phòng trừ sâu hại, hạt có dạng hình trụ, màu xanh mỡ được
người tiêu dùng ưa thích. Tỷ lệ hái đợt đầu vào khoảng 70-80%. Giống này chống
chịu bệnh khảm vàng và đốm lá ở mức trung bình.
4- Giống
V94-208 là giống có năng suất cao, trung bình từ 1,4-1,5 tấn/hécta, có
những nơi đạt 2,8 tấn/hécta. Đặc điểm nổi bật của giống V94-208 cao 75cm, thân
to, lá rộng, quả nằm trên mặt lá, hạt to, hình trụ màu xanh đậm, bóng. Tuy
nhiên, loại giống này có nhược điểm hạt đóng không khít trong trái, vì vậy khi
gặp điều kiện dinh dưỡng không tốt các hạt sẽ không đều. Đồng thời, hạt đậu
V94-208 rất dễ đổi màu khi thu hái gặp trời mưa hoặc phơi không kịp và dễ bị
mọt. Khả năng chống chịu bệnh khảm vàng của giống ở mức trung bình - yếu cho
nên chỉ gieo trồng trong vụ đông-xuân.
7.3-Kỹ thuật trồng
7.3.1-Làm đất trồng
Cũng như nhiều cây họ đậu khác, đậu
xanh cũng yêu cầu đất tơi xốp, vì vậy cần cày bừa kỹ mặt ruộng, làm sạch cỏ
dại. Đậu xanh không chịu được ngập úng nên làm đất phải đánh luống và tạo rãnh
thoát nước. Tùy địa thế mà chọn biện pháp làm đất như là đánh luống hoặc tỉa
lan. Nhưng nên gieo đậu xanh theo hàng để thuận tiện cho việc chăm sóc. Ở các
chân đất không bằng phẳng nên chú ý làm rãnh thoát nước.
7.3.2-Gieo hạt
Hạt đậu xanh nảy mầm khỏe nếu đảm bảo
được 2 yếu tố nhiệt và ẩm. Để đảm bảo đầy đủ nhiệt cho hạt nảy mầm, nhiều nông
dân có tập quán gieo đón mưa. Nếu gặp năm mưa thuận thì năng suất rất cao,
nhưng đa số các cơn mưa đầu vụ thất thường, nhiều vụ gieo đi gieo lại 2-3 lần
rất tốn kém. Để giảm sự bấp bênh ở khâu gieo hạt, bà con cần chú ý phần dự báo
thời tiết trên các phương tiện truyền thông. Đậu xanh có thể gieo sạ theo hàng,
gieo hốc. Tùy theo phương thức gieo mà lượng giống thay đổi, thông thường là
lượng giống sử dụng ít nhất từ 15-16 kg/hécta.
7.3.3-Bón phân
Lượng phân bón thích hợp cho 1 hécta
đậu xanh trên vùng đất đỏ Đông Nam bộ là 90kg urê, 300kg super lân và 90kg kali
và chia làm 3 lần để bón.
- Lần thứ nhất: Bón toàn bộ lân, 1/3
đạm, 1/3 kali.
- Lần thứ hai: Bón thúc đợt 1 khi cây
được 3 lá thật. Lượng phân bón là 1/3 urê và 1/3 kali. Do đậu xanh có số lá ít,
vì vậy nên kết hợp bón thúc đợt 1 với làm cỏ lần đầu
- Lần thứ ba: Sau khi gieo 25 ngày, ta
tiến hành bón thúc toàn bộ lượng phân còn lại và kết hợp với làm cỏ, vun gốc.
7.3.4-Chăm sóc
Đậu xanh là cây trồng chịu hạn tốt,
trồng vào mùa khô chỉ tưới 2-3 lần/tuần. Sử dụng cây tưới phun để tưới cho đậu
xanh vừa tiết kiệm nước và tránh bật gốc làm ảnh hưởng đến phát triển sinh
trưởng của cây.
7.3.5-Phòng sâu bệnh
Đậu xanh là cây ký chủ của nhiều loại
sâu bệnh. Sâu bệng làm cho cây suy yếu, không cho năng suất tối đa. Vì vậy,
muốn có năng suất cao, vấn đề kiểm soát sâu bệnh là điều kiện tiên quyết.
Kết quả điều tra của Cục Bảo vệ thực
vật trên cây trồng đã xác định 20 loài sâu, bệnh hại gây tổn thất năng suất
đậu xanh.
+Các loài côn
trùng gây hại chính
1-Dòi đục thân: Chúng gây hại ở giai đoạn cây con, cây bị hại nếu xẻ
đôi thân phần gốc sẽ thấy dòi. Rải thuốc Regent 0.3 G làm 2 đợt: đợt đầu khi
tiến hành gieo hạt và đợt 2 từ 5-7 ngày sau mọc. Ngoài ra cần phun thuốc diệt
ruồi đẻ trứng trên đợt cây non.
2-Sâu khoan: Đây
là loài ăn tạp, nó ăn lá, hoa và quả đậu xanh, ngài cái sâu khoan thường đẻ
trong 6 ngày liền, trứng nở sau 3-4 ngày, tùy thuộc vào nhiệt độ. Thời gian
sinh trưởng sâu non khoảng 3 tuần, trải qua 6 tuổi, ảnh hưởng thuốc sâu rất
mạnh khi sâu ở độ tuổi 1-2 ngày. Khi sâu lớn, dường như kháng tất cả các loại
thuốc. Sâu non ban ngày núp dưới đất và ăn vào ban đêm, vì vậy, phun thuốc vào
chiều tối mới mang lại hiệu quả.
3-Sâu tơ: Gây hại lớn trong giai đoạn ra hoa. Sâu tơ thường đục
chui vào hopa, phá hại nhụy làm quả không đậu được. Trừ sâu tơ rất khó khăn vì
chúng nằm trong hoa lại có lớp tơ bao bên ngoài làm cho thuốc khó tiếp
xúc.
Vì vậy, trong thời gian cây chuẩn bị ra hoa, cần thường
xuyên quan sát và phun thuốc phòng ngừa. Phương pháp phòng trừ hữu hiệu nhất
hiện nay là dùng bẫy pheromon trên diện rộng.
+Các bệnh chính
1-Bệnh khảm vàng: Bệnh này gây hại trên đậu xanh
tương đối toàn diện, cây đậu bệnh khảm vàng thường ít hoa, quả chín muộn, số
quả trên cây, số hạt trên quả và trọng lượng hạt đều giảm. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, sự thiệt hại tùy thuộc thời gian nhiễm bệnh. Nếu cây nhiễm bệnh trước
7 tuần tuổi năng suất giảm từ 20-70%, nhưng sau 8 tuần thì không ảnh hưởng tới
năng suất.
Phòng trừ bệnh khảm vàng: Biện pháp hữu
hiệu là trồng giống kháng. Đối với những giống có khả năng chống chịu tốt cũng
phải được chọn lọc lại ít nhất là sau 4 vụ gieo trồng. Khi trên ruộng xuất hiện
cây bệnh, cần kịp thời nhổ bỏ, dùng thuốc diệt trừ.
2-Bệnh đốm lá: Tác nhân do
nấm Sercostora gây ra. Bệnh đốm lá hại tất cả các bộ phận trên mặt đất của cây
và bệnh xuất hiện khá muộn. Xuất hiện khi cây ở giai đoạn hình thành nụ đến gần
tới khi thu hoạch. Một số nghiên cứu cũng cho thấy, nếu hạn chế được nấm trên
lá thì sẽ giúp tăng năng suất 50-60%.
Biện pháp phòng trừ bệnh
đốm lá: Nhiều phương pháp hiện được thử nghiệm trên bệnh đốm lá được nhiều nước
thực hiện cho thấy: Một số loại thuốc đã cho hiệu lực khá cao như: Dapronin,
Pamistin, Alvin, Tilt... Thời gian phun thuốc phòng bệnh là 20-40 ngày sau
gieo.
7.4-Thu hoạch
- Đậu xanh trồng được khoảng 45 - 50
ngày bắt đầu cho thu hoạch. Khi thu hoạch chỉ hái những quả chín chuyển màu
nâu, nên thu trái vào buổi chiều, tránh thu vào buổi trưa những quả chín khô sẽ
bị bung ra làm tỷ lệ hao hụt cao.
- Quả đậu xanh sau khi thu hoạch về đem
phơi nắng khoảng 3-4 ngày đập tách lấy hạt làm sạch bụi, phơi tiếp 1-2 ngày và
cho vào bao để bảo quản.
Nguồn tham khảo:
PTS. BÙI VIỆT NGỮ -Khoa học phổ thông, Số 454, 1999
Kỹ sư Đoàn Hữu Nghị (Báo cà
Mau,14/03/2011)
Nguyệt Hạ (Báo Đồng Nai,
10/03/2011)
Kỹ sư Hồ Đình Hải
Tài liệu
tham khảo
12-http://www.thucphamtuonglai.com/thong-tin-suc-khoe/dau-xanh-thuc-pham-cua-tuong-lai.html
Xem Video: Công dụng của đậu xanh và đậu đen
Xem Video: Công dụng của đậu xanh và đậu đen
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét