CÂY LỘC VỪNG
Cây lộc vừng Hồ Gươm (Barringtonia acutangula)
Cây lộc vừng- Cây chiếc-Nam Bộ (Barringtonia asiatica)
-Tên gọi khác: Cây rau vừng, Cây chiếc, Cây mưng, Ngọc nhị tam lang.
-Tên tiếng Anh: Asian barringtonia, Beach barringtonia, Mango-pine, mangobark, Cornbeefwood,
Fish Poison Tree, Fish-killer-tree, Putat or Sea Poison Tree.
-Tên đồng nghĩa:
A. indica Miers
Phân loại khoa học
Giới (Kingdom):
|
Thực vật (Plantae)
|
Ngành (Phylum):
|
Thực vật có
hoa (Angiosperms)
|
Lớp (Class):
|
Hai lá mầm
thực (Eudicots)
|
Phân lớp (Subclass):
|
|
Bộ (Order):
|
|
Họ (Family):
|
Lộc vừng (Lecythidaceae)
|
Chi (Genus):
|
|
Loài (Species):
|
Barringtonia asiatica
|
Chi Lộc vừng (Barringtonia) là cây bản địa vùng Đông Nam Á và Australia , được
biết khoảng 10 loài (species) khác nhau gồm:
2-Barringtonia asiatica (Lộc vừng Nam Bộ-Cây rau vừng).
3-Barringtonia calyptrata (Lộc vừng Australia ).
4-Barringtonia
edulis Seem.
5-Barringtonia payensiana (Lộc vừng Malaysia )
6-Barringtonia
procera (Miers) R.Knuth
8-Barringtonia
reticulata (Blume) Miq.
9-Barringtonia
samoensis A.Gray
10-Barringtonia
seaturae H.B.Guppy (= B.
petiolata ).
Ở Việt Nam
cây Lộc vừng có nhiều loài khác nhau nhưng có dạng hình tương tự nhau với nhiều
tên gọi khác nhau như: Lộc vừng (Miền Bắc), Cây Mưng (Miền Trung), Cây chiếc,
Cây rau vừng (Miền Nam ).
Phân bố
Chi Lộc vừng (Barringtonia) là cây bản địa vùng Đông Nam Á và Australia,
được phân bố ở Trung Á (Afghanistan ), Nam Á (Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh), Đông Nam Á
(Thái Lan, Việt Nam, Cam puchia, Philippines, Indonesia) và Châu Úc (Australia,
Queenland)…Thường là những loài cây hoang dại hoặc được trồng để làm rau và cây
cảnh.
Mô tả
+Loài Lộc vừng
phổ biến nhất: là Cây chiếc hay Rau vừng -Nam Bộ (Barringtonia
asiatica ), có nguồn gốc từ môi trường sống ngập mặn trên bờ biển, hải đảo nhiệt đới của Ấn
Độ Dương và tây Thái Bình Dương từ Zanzibar phía đông Đài Loan , Philippines , Fiji , New Caledonia , Quần đảo Cook , Wallis và Futuna và Polynesia thuộc Pháp. Loài
này được trồng dọc theo đường phố cho mục đích trang trí và bóng mát ở
một số vùng của Ấn Độ, ví dụ trong một số thị trấn trên bờ biển phía đông nam. Nó còn được gọi là Boxtree do quả giống hình hộp có mặt cắt ngang gần hình vuông của nó. Loài này được mô tả và mang tên đầu tiên là Mammea asiatica bởi Carl Linnaeus vào năm1753.
Cây Lộc vừng
Barringtonia asiatica là một loại cây phổ biến trong Rừng
ngập mặn, ở Malaysia
loài này xuất hiện trên các vùng đất ngập nước như các vùng đất ngập nước Kuching và Vườn quốc gia Bako. Tên
Mã Lai của loài này được gọi là “Putat laut” hoặc “Butun”.
Ở Việt nam loài này mọc hoang ở vùng
ven biển Nam Bộ và vùng ngập lũ Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên.
-Thân:
Đây là một loài cây
gỗ cao 7-20 m.
-Lá: Các lá hình
thuôn hẹp , dài 20-40 cm và rộng 10-20 cm . Lá non mềm, bóng,
màu xanh vàng ửng nâu, có vị chát, hơi chua, nên được nhiều người thích dùng làm rau.
-Hoa: Hoa
lớn, màu hồng trắng, hoa tỏa mùi hương ngọt ngào thu hút dơi và bướm đêm để thụ
phấn.
-Quả: Loài
quả lộc vừng có có mặt cắt ngang giữa quả có hình hộp nên trong tiếng Anh còn
gọi là Boxtree. Đây là một đặc điểm để căn cứ phân loại, những loài tiết diện
ngang của quả hình tròn được xem là biến thể của loài này, có thể được phân
chia thành loài khác, chính đặc điểm này gây ra nhiều rắc rối trong
việc phân loại cây lộc vừng.
Quả có đường kính 9-11 cm, có lớp xơ
dầy bao quanh hạt, làm cho quả này trôi nổi trên nước biển và có thể tồn tại
tới 10-15 năm, chúng phát tán giống như quả dừa khô trôi trên biển.
Quả cây lộc vừng
-Hạt: Hạt
có vỏ rắn, dường kính 4-5 cm.
+Loài quan trọng thứ hai là cây Lộc vừng hoa đỏ (Barringtonia acutangula), loài này có nguồn gốc từ vùng đất ngập nước ven biển ở
miền nam Châu Á và
Bắc Úc , phân bố từ Afghanistan về phía đông Philippines và đảo
Queensland.
Loài này là cây Lộc vừng được người Pháp du nhập và cho trồng ở quanh
bờ hồ Hoàn Kiếm (Hà Nội). Đây là loài cây có công dụng dược liệu quan trọng.
+Loài
quan trọng thứ ba là cây lộc vừng hoa
trắng hay hồng (Barringtonia
racemosa ( L. ) Roxb.). Loài này còn có tên
là Lộc vừng hoa chùm, Chiếc chùm, Cây mưng, Tam lang.
Có tên thường gọi trong tiếng Anh là Stream Barringtonia,
Freshwater Mangrove, Indian Oak, Indian Putat, Fish killer tree.
Thành phần hóa học
Tất cả các bộ phận của cây đều có chứa
chất độc hại ,
chất độc hại điển hình là các hoạt chất saponin. Thành phần
các hoạt chất Saponins gồm:
1-Barringtoside A: 3-O-beta-D-xylopyranosyl (1 -> 3) - [beta-D-galactopyranosyl (1 ->
2)-beta-D-glucuronopyranosyl barringtogenol C;
2-Barringtoside B: 3-O-beta-D-xylopyranosyl (1 -> 3) - beta-D-galactopyranosyl (1 ->
2)]-beta-D-glucuronopyranosyl-21-O-tigloyl-28 -O-isobutyryl barringtogenol C;
3-Barringtoside C: 3-O-alpha-L-arabinopyranosyl (1 -> 3) - [beta-D-galactopyranosyl (1
-> 2)]-beta-D - glucuronopyranosyl barringtogenol C.
Các hợp chất độc Saponins có nhiều nhất
trong quả cây lộc vừng (có nhiều nhất ở cây lộc vừng hay rau vừng Nam Bộ (Barringtonia
asiatica ). Ở nhiều nước Nam Á và Đông Nam Á người
ta đâm nát quả lộc vừng để rải xuống ao, hồ làm chất độc thuốc cá. Chất độc này
có tác dụng làm cho cá ngột ngạc, bị khờ và nổi lên để dể bắt. Nhưng chất độc trong
thịt cá ở hàm lượng thấp không đủ gây độc cho người ăn cá.
Chính vì vậy trong tiếng Anh có tên gọi
cây lộc vừng là: Fish Poison Tree (Cây
thuốc cá) , Fish-killer-tree
(Cây diệt cá), Putat or Sea Poison Tree (Cây độc biển).
Công dụng của cây lộc vừng
a-Đọt và lá non cây lộc vừng dùng làm rau
Về hương vị,
màu sắc và cảm quan, đọt và lá cây lộc vừng rất được ưa chuộng để dùng làm rau
ở một số nước vùng Đông Nam Á, đặc biệt ở Nam Bộ Việt Nam lá lộc vừng được xem
như một loại rau đặc sản để ăn sống và nấu canh chua.
Người Châu Âu
rất sợ ăn lá cây lộc vừng vì chất độc nhất là các chất Saponins có trong loại
cây này. Họ cho rằng người Việt Nam
và một số nước Đông Nam Á ăn rau lộc vừng theo kiểu “ điếc không sợ súng”!
Bản thân tác
giả đề nghị người Việt Nam ta nên hạn chế và tốt nhất không nên ăn rau từ các
loài cây lộc vừng và nhắn gửi những người đã đọc qua trang web này có lời
khuyên với nhiều người khác nên tránh ăn rau lộc vừng, mặc dù hiện nay có nhiều người ca tụng loại
rau này, trong đó có những nhà hàng sang trọng đang quảng cáo rau rừng như một
mốt thời đại!
b-Quả cây lộc vừng dùng làm chất độc diệt cá
Trong kinh
nghiệm dân gian ở một số nước trong vùng Nam Á và Đông Nam Á dùng quả già của
cây lộc vừng đâm nát làm bả thuốc diệt cá trong ao hồ để cá khờ dể bắt.
Các dùng này
không phổ biến ở Việt nam.
c-Cây lộc vừng trồng làm cây cảnh
Do cây lộc
vừng sống lâu, có nhiều cành, dể uốn, sửa thế nên được nhiều người dân ở Việt
nam cũng như ở các nước Châu Á dùng trồng làm cây cảnh trong chậu và cây cảnh
cổ thụ.
Ở Việt Nam cây lộc
vừng mọc hoang được bứng trồng trong chậu để làm cây cảnh. Do giá đắt của cây cảnh lộc vừng, cây sống hoang dại ở vùng Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên và vùng ven biển Nam Bộ bị săn lùng để bứng làm cây cảnh nên trong tự nhiên loài cây này giảm đi trầm trọng. Cây lộc vừng sống lâu, ít
sâu bệnh, có hoa và chùm quả đẹp nên được giới trồng cây cảnh rất ưa thích.
Cây lộc vừng trồng làm cây cảnh
Hiện nay tại làng Siêu Quần, xã Phong Bình (Phong Điền, Thừa Thiên- Huế) cách thành phố Huế chừng 40 km về phía
Bắc được bao bọc bởi rừng lộc vừng cổ thụ (người làng gọi là cây mưng). Trên
con đê, hàng nghìn cây lộc vừng xanh mướt chạy dài dọc cánh đồng.Rừng cây lộc vừng hay cây mưng ở nơi đây theo ghi nhận của làng đã khoảng 500 năm tuổi.
Người xưa đã đắp
đê ngăn mặn để trồng trọt và chọn cây lộc vừng trồng thành bốn vòng bao quanh
làng để giữ đất, chắn sóng. Đến nay, cây lộc vừng không ngừng phát triển với
diện tích khoảng 20 ha, chiếm 1/5 diện tích làng.
Theo các cụ trong làng cho biết sở dĩ làng có thể giữ được
rừng lộc vừng như bây giờ là nhờ vào hương ước. Làng nghiêm cấm người dân chặt
phá cây mưng. Người nào chặt dù là cành nhỏ phải cầm mõ đi quanh làng mà rao rằng:
"Tôi bẻ cành, chặt mưng của làng, đã phạm tội đến tổ tiên, từ nay tôi
không dám vi phạm nữa”.
Giờ không còn chuyện rao mõ nữa, nhưng mới đây một người dân
trong làng bứng cây mưng nhỏ về nhà trồng, bị phát hiện đã bị làng xử phạt
500.000 đồng và bị nêu tên trên loa truyền thanh của xã.
Hiện nay tại Khu phố 7 – Thị Trấn Võ Xu - huyện Đức Linh
- tỉnh Bình Thuận đang chào bán cây Lộc vừng cảnh có tuổi 500 năm (xem ảnh).
Cây lộc vừng cảnh ở Khu
phố 7 – Thị Trấn Võ Xu - huyện Đức Linh - tỉnh Bình Thuận
d-Các bộ phận cây lộc vừng dùng làm thuốc chửa bệnh.
+Theo Đông y
Cây lộc vừng có tính vị: Rễ đắng, có tính hạ nhiệt. Hạt thơm.
Công dụng, chỉ
định và phối hợp: Rễ được dùng trị bệnh
sởi. Quả dùng trị ho và hen suyễn. Nhân hạt giã ra thêm bột và dầu, dùng trị ỉa
chảy. Hạt được dùng trị các cơn đau bụng, và bệnh về mắt, còn dùng để thuốc cá.
Quả lộc vừng
xanh ép nước bôi chữa chàm hoặc ngâm rượu trị nhức răng. Vỏ cây chứa nhiều
tanin, dùng chữa bệnh tiêu chảy, đau bụng.
Ở Ấn Ðộ, rễ làm thông, làm mát, quả trị ho, hen và ỉa chảy,
nhân hạt cùng với sữa dùng trị bệnh vàng da và các chứng bệnh về mật; hạt dùng
trị đau bụng và bệnh về mắt, hạt và vỏ trị giun, xổ , sát trùng và để thuốc cá.
Ở Malaixia, lá hoặc cả rễ và vỏ dùng đắp trị ghẻ và các nốt
đậu.
Ở Philippines ,
vỏ thân chữa vết thương, nếu sắc uống lại có tác dụng chữa đau dạ dày.
+Theo Tây y
Trong cây lộc vừng hoa đỏ -loài trồng ở Hồ Hoàn Kiếm-Hà Nội (Barringtonia acutangula) có các chất:
-axit
ellagic: 3'-dimetoxy dihydromyticetin.
-axit galic.
-axit bartogenic.
-stigmasterol este
-triterpenoids: Olean-18-en-3beta-OE-coumaroyl
este và Olean-18-en-3beta-OZ-coumaroyl 12,
20 (29)-lupadien-3-o.
-Các đồng
phân loại Oleanane triterpenoids:
-racemosol A (1):
[22alpha-axetoxy-3beta, 15alpha, 16alpha, 21beta-tetrahydroxy-28-(2-methylbutyryl)
Olean-12-ene.
-isoracemosol A (2):
[21beta-axetoxy -3beta, 15alpha, 16alpha
,28-tetrahydroxy-22alpha-(2-methylbutyryl) Olean-12-ene.
-Các hợp chất Saponins:
-barringtoside A.
-barringtoside B.
- và barringtoside C.
-các glucosid saponin
-vỏ chứa 18% tanin.
-vỏ chứa 18% tanin.
Hổ hợp các hoạt chất này trong dịch chiết của rể và quả cây
lộc vừng (Barringtonia acutangula) được Tây y xác định:
1-Có tác dụng chống viêm: được sản xuất dạng tân dược.
2-Sản xuất thuốc kháng sinh: có triển vọng.
3-Tác dụng chống loài vi trùng gây viêm loát dạ dày, tá tràng (Helicobacter pylori)
là một trong những nguyên nhân gây bệnh ung thư dạ dày do vi trùng này đã được xác định (theo
Samanta SK. Nhattacharya. Mandal C. Pal BC. Journal of Asian Natural Products
Research. 12 (8): 639-48, 2010 Aug.).
4-Chất chiết của hạt lộc vừng hoa đỏ (Barringtonia acutangula) có tác dụng
chống ung thư đã được xác định (theo Samanta SK. Nhattacharya. Mandal C.
Pal BC. Journal of Asian Natural Products Research. 12 (8): 639-48, 2010 Aug.).
5-Chất chiết trong vỏ và hạt cây lộc
vừng có tác dụng giảm đau đã được xác định. (theo Journal of Ethnopharmacology.
86(1): 21-6, 2003 May.).
6- Chất chiết trong vỏ và hạt cây lộc
vừng có tác dụng kháng nấm đã được xác định (theo International Journal of
Research in Pharmaceutical Sciences 2010 1:4 (407-410).
Hiện nay có nhiều sản phẩm tân dược từ cây lộc vừng đã dược sản xuất và lưu hành trên thế giới.
Hiện nay có nhiều sản phẩm tân dược từ cây lộc vừng đã dược sản xuất và lưu hành trên thế giới.
Một số bài thuốc từ cây lộc vừng
1-Chữa bệnh trĩ
bằng lá cây lộc vừng:
Bài thuốc này rất đơn giản, đã được nhiều người dùng. Rất an
toàn và dể kiếm và hiệu quả cao. Một chét lá cây lộc vừng tuơi - khoảng 20gram
(cây trồng làm cảnh ở mọi nơi đều có). Yêu cầu lá Bánh tẻ (không
non quá, không già quá) rửa bằng nước nhiều lần cho thật sạch, lần cuối rửa
bằng nước sôi nguội, để ráo nước, buổi tối trước đi ngủ khoảng 15 phút, nhai lá
cây, nuốt lấy nước, bã đắp vào hậu môn (dùng một miếng Polyethylen sạch lót
phía ngoài sao cho không bị thấm mất nước từ bã ra ).
Tác dụng : làm hết táo bón, co búi trĩ (nội và ngoại) chống
viêm, cầm máu. Dùng một đợt từ 7-10 ngày, sau đó nếu có thể kiếm được lá lộc
vừng ăn sống khoảng 10 ngày nữa thi không còn bị khổ vì trĩ nữa. (theo
nguyentampharma.com).
2-Trị bệnh đau
bụng, tiêu chảy, sốt:
Vỏ thân lộc vừng, thu hái quanh năm, cạo bỏ lớp bần bên
ngoài, rửa sạch, thái phiến, phơi hoặc sấy khô được dùng làm thuốc chữa đau
bụng, tiêu chảy, sốt, do vỏ chứa nhiều tanin (16%). Khi dùng, lấy 8-16g vỏ sắc
với 400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày. (theo Dược sĩ ĐỖ
HUY BÍCH).
3-Quả cây lộc vừng chữa đau răng:
Quả lộc vừng còn xanh, ép lấy nước, bôi chữa chàm, hoặc
nghiền nhỏ ngâm với rượu, ngậm nhổ nước chữa đau răng. (theo Dược sĩ ĐỖ
HUY BÍCH).
Tài liệu tham khảo
Kỹ sư Hồ Đình Hải
Xem video: Cây lộc vừng đẹp-Cây cảnh cổ thụ ở Huế
Xem video: Cây lộc vừng đẹp-Cây cảnh cổ thụ ở Huế
Thưa anh, ậy lá cây lộc vừng, người Nam gọi là "đọt chiếc" dùng làm rau sống ăn bánh xèo có phải không?
Trả lờiXóaAnbinh