Dây tiêu


DÂY TIÊU


-Tên gọi khác: Hồ tiêu, tiêu sọ, tiêu đen, cổ nguyệt, hắc cổ nguyệt, bạch cổ nguyệt
-Tên tiếng Anh: Piper, pepper plants , pepper vines.
-Tên khoa học: Piper nigrum L.
-Các loài tương cận:

Vườn tiêu ở Phú Quốc

Dây tiêu đen

Chùm quả tiêu

Phân loại khoa học


Bộ (ordo):
Hồ tiêu (Piperales)
Họ (familia):
Hồ tiêu (Piperaceae)
Chi (genus):
Hồ tiêu (Piper)
Loài (species):

Họ Hồ tiêu (Piperaceae) là một họ thực vật lớn bao gồm các loại cây thân gỗ nhỏ, cây bụi hay dây leo ở khu vực nhiệt đới. Họ này chứa trên 2.000 loài được nhóm trong 9 chi. Trong đó có Chi Hồ tiêu (Piper) là một chi có tầm kinh tế quan trọng.
Chi Hồ tiêu (Piper) với trên 1.000 loài bao gồm những cây thân bụi, thân thảo và dây leo, trong đó có nhiều loài nguyên thủy và nhiều loài là thực vật xâm lấn khi chúng được đưa đến. Sự đa dạng của chi này giành được sự quan tâm trong nghiên cứu và tìm hiểu sự tiến hóa của thực vật.
Số loài tiêu được tìm thấy ở Châu Mỹ (khoảng 700 loài), ở Châu Á (khoảng 300 loài) , ở Nam Thái Bình Dương (khoảng 40 loài) và Châu Phi (khoảng 15 loài). 
Các loài quan trọng trong Chi Hồ tiêu (Piper) gồm có:
-Hồ tiêu đen (Piper nigrum) (còn có thể gọi là hồ tiêu trắng, hồ tiêu lục, tùy theo màu sắc của hạt thương phẩm).
Cây Hồ tiêu đen (Piper nigrum) còn gọi là cổ nguyệt, hắc cổ nguyệt, bạch cổ nguyệt là một loài dây leo có hoa thuộc họ Hồ tiêu (Piperaceae), trồng chủ yếu để lấy quả và hạt, thường dùng làm gia vị dưới dạng khô hoặc tươi.
Cây có tên cổ nguyệt trong tiếng Trung Quốc vì được trồng tại nước Hồ, chữ này do hai chữ "cổ" chữ "nguyệt" hợp thành.
Tên khoa học  Piper "tiêu" được bắt nguồn từ tiếng Phạn pippali, biểu thị cho loài tiêu  Pepper Long ( P. longum ).

Phân bố

Chi Hồ tiêu bao gồm các loài có sự phân bổ rộng khắp vùng nhiệt đới, phổ biến nhất trong các tầng thấp của các rừng mưa nhiệt đới, nhưng cũng có thể có mặt tại các khoảng rừng trống và ở các cao độ lớn, chẳng hạn các rừng mây.
Loài (P. kadsura ở miền nam Nhật Bản và phần xa nhất về phía nam của Hàn Quốc) là loài thuộc vùng cận nhiệt đới và có thể chịu được sương giá nhẹ trong mùa đông. Các loài cây thuộc chi này là thực vật chủ yếu tại các khu vực mà người ta tìm thấy chúng.
Ba loài quan trọng được tập trung nghiên cứu nhiều nhất là P. nigrum (hồ tiêu), P. methysticum (ca va) và P. betle (trầu không).
Một số loài kiến (bắt buộc hoặc không bắt buộc phải có) được tìm thấy sinh sống trên một số loài Piper có ảnh hưởng mạnh đối với sự phát triển của chúng, làm cho chúng trở thành một hệ thống lý tưởng cho các nghiên cứu về tiến hóa của sự cộng sinh và các ảnh hưởng của sự hỗ sinh đối với các cộng đồng sinh vật.
Các nước có trồng tiêu nhiều như Việt Nam, Thái lan, Malaixia, Indonexia, Ấn độ, Campuchia, đảo Hải Nam (Trung quốc).
Ở Việt Nam Cây Hồ tiêu được nhập nội từ thế kỷ thứ 18 và được trồng trồng khắp nơi từ Nam chí Bắc, nhiều nhất là ở các tỉnh Châu đốc, Hà tiên, Bà rịa, Quãng trị, Gia Lai...

Mô tả

Hồ tiêu là một loại dây leo, thân dài, nhẵn không mang lông, bám vào các cây khác bằng rễ.
-Thân: Thân mọc cuốn, mang lá mọc cách. Có hai loại nhánh: một loại nhánh mang quả, và một loại nhánh dinh dưỡng, cả hai loại nhánh đều xuất phát từ kẽ lá.
Đốt cây rất dòn, khi vận chuyển nếu không cn thận thì cây có thể chết.
-Lá: Lá như lá trầu không, nhưng dài và thuôn hơn.
-Hoa: Đối chiếu với lá là một cụm hoa hình đuôi sóc. Khi chín, rụng cả chùm.
-Quả: Quả hình cầu nhỏ, chừng 20-30 quả trên một chùm, lúc đầu màu xanh lục, sau có màu vàng, khi chín có mầu đỏ. Từ quả này có thể thu hoạch được hồ tiêu trắng, hồ tiêu đỏ, hồ tiêu xanh  hồ tiêu đen.
-Hạt: Quả có một hạt duy nhất.

Quả tiêu xanh

Quả tiêu chín

Hồ tiêu được thu hoạch mỗi năm hai lần. Muốn có hồ tiêu đen, người ta hái quả vào lúc xuất hiện một số quả đỏ hay vàng trên chùm, nghĩa là lúc quả còn xanh; những quả còn non quá chưa có sọ rất giòn, khi phơi dễ vỡ vụn, các quả khác khi phơi vỏ quả sẽ săn lại, ngả màu đen. Muốn có hồ tiêu trắng (hay hồ tiêu sọ), người ta hái quả lúc chúng đã thật chín, sau đó bỏ vỏ. Loại này có màu trắng ngà hay xám, ít nhăn nheo và ít thơm hơn (vì lớp vỏ chứa tinh dầu đã mất) nhưng cay hơn (vì quả đã chín).
Bên cạnh hai sản phẩm nói trên, tuy hiếm hơn, còn có hồ tiêu đỏ, là loại hồ tiêu chín cây hoặc được thu hái khi rất già, ủ chín sau đó được chế biến theo cách thức đặc biệt để giữ màu đỏ của vỏ. Hồ tiêu đỏ có màu đỏ thẫm hơi ngả đen, được sản xuất tại Ấn Độ và tại huyện Chư Sê  Bà Rịa - Vũng Tàu Việt Nam. Giá trị xuất khẩu của tiêu đỏ sau khi chế biến cao hơn gấp 3 đến 4 lần so với hạt tiêu đen.

Hạt tiêu đen

Tiêu đen, tiêu trắng và tiêu xanh

Các sản phẩm hạt tiêu Việt Nam

Thành phần hóa học

Hồ tiêu cũng rất giàu vitamin C, thậm chí còn nhiều hơn cả cà chua. Một nửa cốc hồ tiêu xanh, vàng hay đỏ sẽ cung cấp tới hơn 230% nhu cầu canxi 1 ngày/1 người.
Trong hạt tiêu có 1,2-2% tinh dầu, 5-9% piperin và 2,2-6% chanvixin. Piperin và chanvixin là 2 loại ankaloit có vị cay hắc làm cho hạt tiêu có vị cay. Trong hạt tiêu còn có 8% chất béo, 36% tinh bột và 4% tro.
Thành phần chủ yếu:
Hồ tiêu có tinh dầu. Thành phần chủ yếu có piperine, chavicine (là 2 ankaloit chủ yếu) piperamine, peperanine, peperonal, dihydrocarveol, caryophyllene oxide, cryptone, transpinocarveol, cis-p-2-8-menthadien-I-ol.

Công dụng

a-Hạt tiêu được sử dụng làm gia vị
-Chùm quả tiêu xanh được dùng làm gia vị trong các món nấu với thịt, cá để làm giảm mùi tanh, có vị cay nồng kích thích tiêu hóa.
-Thường dùng hạt tiêu đã phơi, sấy khô, rang chín, có vị thơm cay dùng làm gia vị. Hạt tiêu khô bảo quả được lâu và được buôn bán trên toàn cầu kể cả ở vùng nhiệt đới và ôn đới.
b-Hạt tiêu có tác dụng dược liệu
Hạt tiêu có vị thơm, cay nồng và kích thích tiêu hoá, có tác dụng chữa một số bệnh.
Hạt tiêu cũng rất giàu chất chống oxy hóa, chẳng hạn như beta carotene, giúp tăng cường hệ miễn dịch và ngăn ngừa sự hủy hoại các tế bào gây ra các căn bệnh ung thư và tim mạch.
+Trên thế giới
Trên thế giới có nhiều loài tiêu hoang dại được dùng làm bài thuốc trong dân gian như:
-Loài tiêu Cubeb (P. cubeba) đã được sử dụng trong y học dân gian ở Nam Mỹ để khử mùi, trừ tà ma.
-Loài tiêu P. darienense được sử dụng y tế của người dân Kuna của khu vực biên giới Panama-Cô-lôm-bi-a dùng để trị nhiễm độc cá nhờ các đặc tính kháng sinh.
-Tinh dầu hạt tiêu đen (P. nigrum) và tiêu dài Pepper Long (P. longum) được sử dụng ở Ayurveda nhằm mục đích giải độc và làm trẻ hóa.
-Trầu lá (P. betle) được dùng ở Việt Nam và Ấn Độ để bảo vệ răng và vệ sinh miệng.
-Tiêu Kava ​​(P. methysticum) được dùng ở khu vực Thái Bình Dương được sản xuất một thức uống như rượu và toàn bộ cây tiêu được xay bột và chế thành những "viên thuốc thảo dược bổ sung" để trị đường ruột. Tuy nhiên do có hiệu ứng độc cho gan nên loại thuốc này đã bị cấm sử dụng ở nhiều nước trong khu vực.
+Nghiên cứu dược liệu của hạt tiêu Việt Nam
Thường gọi là Hạt tiêu, còn có tên là Cổ nguyệt, Hắc cổ nguyệt, Bạch cổ nguyệt, Hắc xuyên, Bạch xuyên là quả gần chín của cây Hồ tiêu phơi hay sấy khô, dùng làm thuốc đợc ghi đầu tiên trong sách Tân tu bản thảo.
Tên thực vật của cây Hồ tiêu là Piper Nigrum L. thuộc họ Hồ tiêu (Piperaceae). Hạt tiêu phơi hay sấy khô thành màu đen gọi là Hồ tiêu đen. Nếu đem quả chín ngâm nước vài ngày xát cho tróc vỏ ngoài phơi khô thành màu trắng gọi là Hồ tiêu trắng (Tiêu sọ). Hạt tiêu dùng sống, giã nát hoặc tán bột dùng làm gia vị hoặc làm thuốc.
Tính vị qui kinh:
Hồ tiêu vị cay tính nóng. Qui kinh Vị Đại tràng.
Theo các sách cổ:
-Sách Tân tu bản thảo: vị cay, đại ôn, không độc.
-Sách Bản thảo kinh sơ: nhập thủ túc dương minh kinh.
Thành phần chủ yếu:
Hồ tiêu có tinh dầu. Thành phần chủ yếu có piperine, chavicine (là 2 ankaloit chủ yếu) piperamine, peperanine, peperonal, dihydrocarveol, caryophyllene oxide, cryptone, transpinocarveol, cis-p-2-8-menthadien-I-ol.
Tác dụng dược lý:
a.Theo Y học cổ truyền:
Hạt tiêu có tác dụng ôn trung chỉ thống, chủ trị chứng đau bụng lạnh, nôn, tiêu chảy.
Trích đoạn Y văn cổ:
-Sách Tân tu bản thảo: " Chủ hạ khí, ôn trung, trừ đờm, trừ phong lãnh ở tạng phủ".
-Sách Bản thảo diễn nghĩa: " Hồ tiêu trị chứng vị hàn đàm, ói nước, ăn vào ói ngay rất tốt. Dùng nhiều tẩu khí Đại trường hàn hoạt nên dùng, cần tùy chứng mà phối hợp các vị thuốc khác".
-Sách Bản thảo cầu chân: "Hồ tiêu so với Thục tiêu nóng hơn. Phàm các chứng do hỏa suy hàn nhập đàm thực ứ trệ bên trong, trường hoạt lãnh lî, âm độc phúc thống, vị hàn ói nước, nha sĩ phù nhiệt tác thống (răng lợi do nhiệt xông sinh đau, dùng hạt tiêu trị đều có kết quả, thuốc làm cho hàn khí bị loại trừ mà bệnh tự khỏi. Nhưng thuốc chỉ có tác dụng trừ hàn, tán tà không như Quế Phụ có tác dụng bổ hỏa ích nguyên nên trường hợp tẩu khí động hỏa, âm hư khí bạc, rất nên kî Hồ tiêu".
b.Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại:
1-Dùng liều nhỏ tăng dịch vị, dịch tụy, kích thích tiêu hóa ăn ngon, nhưng liều lớn kích thích niêm mạc dạ dày gây sung huyết và viêm cục bộ, gây sốt viêm đường tiểu, đái ra máu.
2-Piperin và piperidin gây độc ở liều cao, piperidin làm tăng huyết áp, làm tê liệt hô hấp và một số dây thần kinh (50mg/kg cân nặng). Piperin tiêm bắp cho thỏ và chuột bạch hoặc cho hít hơi với liều cao thì sau một thời gian kích thích ngắn, có hiện tượng thở nhanh lên chân sau tê liệt rồi mê hoàn toàn, co quắp, chết do ngừng thở. Giải phẩu thi thể, các phủ tạng đều có hiện tượng xuất huyết.
-Hồ tiêu có tác dụng sát trùng, diệt ký sinh trùng, gây hắt hơi. Mùi Hồ tiêu đuổi sâu bọ nên được dùng để bảo vệ quần áo len khỏi bị sâu cắn.
-Ankaloit Hồ tiêu có tác dụng an thần đối với chuột nhắt rõ rệt.

Các bài thuốc từ cây tiêu

1.Trị động kinh: Tác giả dùng Kháng giản linh trị 73 ca động kinh đã dùng thuốc tây không khỏi. Liều thường dùng mỗi ngày 150 - 200mg, có ca dùng liều gấp đôi, liệu trình từ 6 tháng đến 2 năm. Kết quả rõ 36 ca, tiến bộ 34 ca, tỷ lệ có kết quả 95,9%, không kết quả 3 ca. Có 35 ca làm lại điện não đồ, có 23 ca được cải thiện, có kết quả tốt đối với loại động kinh nguyên phát hoặc do chấn thương cơn lớn, không có phản ứng phụ rõ rệt, trường hợp dùng thuốc trên 200mg mỗi lần, có ca váng đầu, buồn ngủ kém ăn hoặc buồn nôn (Báo cáo của phòng khám Động kinh Bệnh viện Nhân dân thuộc Học viện Y học Bắc kinh- Tạp chí Nội khoa Trung hoa 1977,6:321).
2.Trị trẻ em tiêu chảy: lấy 1 - 2 hạt tiêu trắng tán bột bỏ vào rốn của trẻ em dùng băng dính dán lại 24giờ thay một lần, có thể dùng 2 - 3 lần. Đã trị 209 ca có kết quả 81,3% (Tạp chí Trung y Hà bắc 1985,4:23).
3.Trị quai bị: Bột Hồ tiêu 0,5 - 1g trộn với bột mì trắng 5 - 10g, trộn với nước nóng thành dạng hồ cho vào gạo đắp lên chỗ đau, dán băng keo mỗi ngày thay 1 lần. Tác giả Bạch vân Điền trị 18 ca kết quả tốt (Tạp chí Y học Sơn tây 1960,1:66).
Ngoài ra Hồ tiêu phối hợp với Đậu xanh trị Xích Bạch lî, bột Hồ tiêu bôi vào răng, Hồ tiêu dùng làm gia vị, làm tăng khẩu vị kích thích tiêu hóa.
Liều lượng dùng và chú ý:
Lượng dùng cho vào thuốc thang: 2 - 3g, thuốc tán 1 - 2g. Dùng ngoài lượng vừa đủ.
Không dùng đối với chứng âm hư nội nhiệt.
Xem thêm
Black Pepper (Piper nigrum)
West African Pepper (P. guineense),
Piper lolot  Lolot, lá lốt 

                                                                  Kỹ sư Hồ Đình Hải
Tài liệu tham khảo
3-http://www.thaythuoccuaban.com/vithuoc/hotieu.htm

Xem Video: Cây tiêu ở Chư Sê - Gia Lai


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét