Rau mồng tơi
Rau mồng tơi
-Tên gọi khác: Mùng tơi, tầm tơi , lạc quỳ.
-Tên tiếng Anh: Red vine spinach, Creeping spinach, Climbing spinach, Indian
spinach, Asian Spinach.
-Tên khoa học: Basella alba L.,
1753
-Các loài tương
cận: B. rubra, B. cananifolia, B. cordifolia, B. crassifolia, B. japonica, B. lucida, B.
nigra, B. ramosa, B. Volubilis.
Phân loại khoa học
Bộ (ordo):
|
Cẩm chướng (Caryophyllales)
|
Họ (familia):
|
Mồng tơi (Basellaceae)
|
Chi (genus):
|
|
Loài (species):
|
Basella alba
|
Phân bố
Mồng tơi hay mùng tơi (Basella alba L.)
là loài thực vật có kiểu quang hợp theo chu
trình C4, có số nhiễm sắc
thể 2 n = 44 hoặc 48, thuộc họ Mồng tơi (Basellaceae). Loài cây này có
nguồn gốc bản địa ở các nước Nam Á, lan tỏa và mọc hoang ở nhiều nước Châu Á và
được trồng ở vùng nhiệt đới Châu Á, Châu Phi và còn phát triển ở vùng ôn đới
thuộc Châu Á và Châu Âu.
Phân bố ở vùng nhiệt đới châu Phi, cũng phân bố ở quần đảo
Ăngti, Braxin và Châu Á (Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt
Nam). Ở Việt Nam ,
cây mọc hoang và được trồng khắp nơi.
Thường gặp ở ven rừng, trên đất ẩm, trong các đất trồng trọt
từ vùng thấp tới vùng cao.
Cây được trồng ở phần lớn các vùng nhiệt đới để lấy lá và
ngọn làm rau ăn và quả mọng có khi được dùng để nhuộm màu thực phẩm.
Tại Châu Phi nhiệt đới, nó phổ biến nhất trong khu vực ấm
áp, ẩm ướt và trở thành quý hiếm đối với các bộ phận khô hoặc lạnh lẽo của châu
lục này.
Mô tả
Đây là
cây thuộc loại dây
leo quấn, có lá và đọt non ăn được, sống 1 năm
hay 2 năm.
-Thân: dạng dây leo mập và nhớt, thân nhẳn
bóng có màu xanh hay tím. Cây mồng tơi mọc nhanh, dây có thể dài đến 10 m.
-Rể: Rể chùm mọc sâu trong đất, thích hợp trên đất tơi xốp.
-Lá: Lá dày hình tim hoặc hình trứng, mọc xen, đơn, nguyên, có cuống, màu xanh, mọng nước.
-Hoa: Cụm hoa hình bông mọc ở kẽ lá, màu trắng hay tím đỏ nhạt.
-Quả: Quả mọng, nhỏ, hình cầu hoặc trứng, dài khoảng 5–6 mm, màu xanh, khi
chín chuyển màu tím đen.
Thành phần hóa học
Theo tài liệu của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA, 2002) trong
100 g phần tươi ăn được của rau mồng tơi có chứa: nước 93 g; năng lượng 79 kJ
(19 kcal ); 1,4% glucid; 2,5% xơ; 0,9% tro; protein 1,8 g; chất béo 0,3 g; Ca
109 mg; P 52 mg; Fe 1,2 mg;vitamin A 8000 IU; thiamin 0,05 mg, riboflavin 0,16
mg; niacin 0,50 mg; folate 140 mg; acid ascorbic 102 mg.
So sánh với các loại rau
ăn lá khác thì rau mồng tơi có độ ẩm cao hơn.
Ngoài ra trong lá rau mồng
tơi còn có chứa các chất oligoglycosides,
một số triterpene loại oleanane, bao gồm basellasaponins, betavulgaroside I,
spinacoside C và momordins.
Trong hạt rau mồng tơi có chứa 2 peptide kháng nấm và
ribosome-khử hoạt tính các protein, có hoạt tính kháng virus đã được phân lập
từ hạt giống.
Công dụng của cây mồng tơi
a-Lá và đọt non của
rau mồng tơi dùng làm rau
Do co giá trị dinh dưỡng
cao, không độc, dể trồng nên Tổ chức FAO khuyên trồng rau mồng tơi trong các ô
rau dinh dưỡng gia đình ở các nước đang phát triển.
Ở Việt nam và nhiều nước
Châu Á, Châu Phi dùng rau mồng tơi mọc hoang hoặc trồng trong các món canh để
ăn với cơm.
Do rau mồng tơi có độ nhớt
cao nên không được dùng để ăn sống mà chỉ được dùng chín.
Các món ăn từ rau mồng tơi
ở Việt nam gồm có:
-Rau mồng tơi luộc: Đơn
giản cho rau mồng tơi vào nước sôi, đun vừa chín sẽ có món rau mồng tơi luộc.
Có thể luộc riêng hoặc chung với nhiều loài rau khác.
-Rau mồng tơi nấu canh:
Rau mồng tơi có thể nấu riêng hoặc với nhiều loại rau khác. Có thể là canh chay
(với đậu hủ, nấm…) hay nấu với thịt, cá…
Canh rau
mồng tơi
-Rau mồng tơi dùng để nhúng lẫu: Rau mồng tơi được dùng để nhúng các món lẩu ngọt, thịt hầm…
Ở Việt Nam và các nước
vùng Đông Nam Á ăn cơm là chính nên rau mồng tơi rất thích hợp để nấu ăn. Lá và thân non của mồng tơi
thường được dùng để nấu canh ăn mát và có tính nhuận trường.
Ở Châu Phi món súp rau mồng tơi là món ăn truyền thống bản
địa. Người Châu Âu đến sống ở Châu Phi chọn rau mồng tơi thay thế cho rau bina
và họ đặt tên cho rau mồng tơi là rau bina Tích Lan. Đọt non của rau mồng tơi
dùng trong các món súp được dùng để thay thế cho rau xà lách bắp (Valerianella
locusta (L.) Laterr).
b-Công dụng của quả mồng tơi
Ở một số nước Châu Phi và Nam Á quả chín của cây mồng tơi đã
được sử dụng để nhuộm, nước ép quả màu đỏ có thể được sử dụng như mực in, mỹ
phẩm và chất màu thực phẩm.
c-Các bộ phận của cây
mồng tơi được dùng làm thuốc.
+Theo Đông y :mồng tơi có vị
chua ngọt, không độc, tính lạnh. Nó có tác dụng giải độc, thanh nhiệt, hoạt
tràng... Dùng mồng tơi để giải độc, chữa đại tiện bí kết, đại tiện xuất huyết,
tiểu tiện khó, đái nhỏ giọt, đái dắt, chữa kiết lỵ hiệu quả. (theo Lương y
Huyên Thảo -Hà Nội).
Mồng tơi tính hàn, vị chua, tán nhiệt, mát máu, lợi tiểu,
giải độc, làm nhuận da, hoạt trường, không độc. Theo Nam dược thần hiệu của Tuệ
Tĩnh còn có tác dụng hoạt thai làm dễ đẻ.
Cả Đông và Tây y đều khẳng định loại rau này có tác dụng
nhuận tràng.
-Ở các nước vùng Đông Nam Á: Mồng tơi thường
được dùng làm thức ăn như rau cho người bị táo bón, người đi đái ít và đỏ, phụ
nữ đẻ xong ít sữa. Dùng tươi giã đắp vú sưng đau. Hạt dùng sắc lấy nước rửa
chữa đau mắt. Còn dùng tán bột hòa với mật ong bôi lên mặt cho da được mịn
màng, hoặc dùng thoa trị rôm sẩy.
Ở Thái Lan, lá được dùng trị bệnh nấm đốm tròn; hoa dùng trị
bệnh nấm lang ben; rễ nhuận tràng và dùng ngoài trị sự biến màu của da tay,
chân và dùng trị gàu; quả dùng làm thuốc nhuộm màu thức ăn.
-Ở Trung Quốc, toàn cây được dùng làm thuốc trị lỵ, đại tiện bí kết, viêm
bàng quang, viêm ruột thừa; dùng ngoài trị gãy xương, đòn ngã tổn thương, ngoại
thương xuất huyết, bỏng lửa. Có nơi người ta dùng rau mồng tơi giã nát đắp chữa vú
sưng, nứt, giải độc.
-Ở Ấn Độ, người ta dùng lá trong điều trị bệnh lậu và viêm quy đầu.
Dịch lá dùng trị mày đay và trong trường hợp táo bón, bệnh lỵ, nhuận tràng,
nhất là ở trẻ em và phụ nữ có thai. Dùng rể cây mồng tơi đun lấy nước trị tiêu
chảy. Hoa mồng tơi đun làm thuốc giải độc, lợi tiểu, giải nhiệt.
-Ở Nepal dùng lá mồng tơi giả nát để trị bỏng.
-Ở Kenya , các lá được sử dụng để chữa bệnh đau dạ dày và táo bón sau
khi sinh con, lá giả nhuyễn được dùng đắp thuốc lên chổ sưng
để vết loét.
-Ở Đông Phi, thân, lá mồng tơi được làm thức ăn cho vật nuôi để tăng
sản xuất sữa.
-Theo Tây y: Các nghiên cứu còn cho
thấy nó giúp thải chất béo, tôt cho người có mỡ và đường máu cao.
Trong mồng tơi chứa chất nhầy pectin rất quý để phòng chữa
nhiều bệnh, làm cho rau mồng tơi có tác dụng nhuận tràng, thải chất béo chống
béo phì, thích hợp cho người có mỡ và đường cao trong máu. Tác dụng trừ thấp
nhiệt, làm cho người lao động ngoài trời nắng nóng duy trì được sức khỏe, phòng
chống bệnh tật như mỏi mệt háo khát, bứt rứt. (Theo BS. Phó Thuần Hương-sk&đs)
Các bài thuốc từ cây rau mồng tơi
1-Thanh nhiệt giải độc: Có nhiều cách từ đơn giản đến phức tạp. Ta đã có những cách
thông dụng như canh rau mồng tơi, hoặc kèm rau đay, mướp, cua, tôm... ăn với cà
pháo muối giòn thì ngon tuyệt, lại mát ruột ngon miệng, ăn được nhiều cơm mặc
cho trời nóng bức... (Theo BS. Phó
Thuần Hương-sk&đs).
2-Hoạt trường thanh nhiệt dưỡng âm giúp da tươi nhuận: Rau mồng tơi luộc chấm hoặc trộn vừng đen đã rang tán bột. (Theo BS. Phó Thuần Hương-sk&đs).
3-Chữa đầy bụng: Rau mồng tơi 50g, rau đay 50g, khoai sọ 1 củ (bóc vỏ thái
nhỏ) nấu canh ăn vài ba ngày. Hoặc dùng 4 loại rau sau đây với lượng bằng nhau
nấu canh: mồng tơi, đay, rau khoai, rau má. (Theo BS. Phó Thuần Hương-sk&đs).
3-Chữa táo bón lâu ngày gây thoát giang: Lá mồng tơi, lá vông non mỗi thứ 30g, rễ đinh lăng 20g, củ
mài 12g (thái mỏng sao vàng), vừng đen 30g (rang nổ) sắc với 600ml nước còn
300ml. Người lớn chia 2 lần, trẻ em tùy tuổi dùng ít hơn. (Theo BS. Phó Thuần Hương-sk&đs).
4-Chữa khí hư, suy nhược: Gà ác 1 con, lá mồng tơi 1 nắm, đậu đen 1 nắm, ninh nhừ ăn
nóng cả nước và cái. Tuần ăn 1-2 lần cách nhau 3-6 ngày. Khi thấy có kết quả
cho thêm một nắm đậu nành, 2 nắm lạc. Món này giúp chị em bồi dưỡng sau đẻ và
làm cho da hồng hào, tóc đen mượt. Người bị đau dạ dày, ợ chua ăn món này cũng
tốt. (Theo BS. Phó Thuần
Hương-sk&đs).
5-Để da tươi nhuận hồng hào: Dùng rau mồng tơi nấu canh với cá trê vàng, mỗi tuần ăn 1
lần. (Theo BS. Phó Thuần
Hương-sk&đs).
6-Chữa tiểu tiện buốt nóng: Lá mồng tơi 1 nắm, giã nhuyễn, lấy nước cốt pha thêm nước,
chắt lấy nước, uống nóng với ít hạt muối. Bã đắp vùng bàng quang. (Theo BS. Phó Thuần Hương-sk&đs).
7-Nhức đầu do đi nắng: Lá mồng tơi giã nhuyễn lấy nước uống, bã đắp vào 2 bên thái
dương băng lại. (Theo BS. Phó Thuần
Hương-sk&đs).
8-Tráng dương, trị "yếu sinh lý": Rau mồng tơi, rau ngót, rau má. Mỗi thứ 1 nắm, 1 bộ lòng gà
hay vịt, đủ cho 1 người lớn ăn 1 bữa. Nấu canh, ăn vã hoặc ăn với cơm. Tuần ăn
vài lần. Nếu uống kèm nước cơm rượu, hiệu quả càng lớn. (Theo BS. Phó Thuần Hương-sk&đs).
9-Canh rau mồng tơi phối hợp với tôm bổ dương cường thận: Tôm tươi bóc vỏ bỏ đầu ướp hành muối xào săn, chế nước dùng
sôi cho rau mồng tơi sôi lại. Tác dụng bổ dương cường thận. (Theo BS. Phó Thuần Hương-sk&đs).
10-Chữa di mộng tinh: Rau mồng tơi, đậu nành, lạc. Mỗi thứ 1 nắm, nấu với 1-2kg
xương lợn (xương ống tốt hơn), hầm kỹ xương lợn trong nồi áp suất rồi mới cho
đậu lạc và cuối cùng cho rau mồng tơi. Có thể cho thêm tiêu bột, nước tương,
nước mắm. Ăn nóng, ăn xong uống nước nóng. (Theo BS. Phó Thuần Hương-sk&đs)
11-Chữa hoạt tinh: Trường hợp tinh xuất quá nhanh và sau giao hợp thường bị mệt
mỏi đuối sức, xanh xao. Rau mồng tơi 1 nắm, rau dền tía 1 nắm nấu với 1 quả thận (lợn hay dê) với gia vịị. Ăn
nóng, ăn xong uống nước trà gừng nóng sẽ tăng hiệu quả. Trước khi đi ngủ ăn 1
thìa vừng đen (đã rang thơm) nhai kỹ nhuyễn rồi nuốt. Xong uống 1 chén nước cơm
rượu, càng có hiệu quả cao hơn. (Theo
BS. Phó Thuần Hương-sk&đs).
12-Chữa đầu vú sưng, nứt, trĩ, mụn nhọt, bỏng: Lá mồng tơi rửa sạch giã nhuyễn với ít muối đắp lên chỗ tổn
thương. Da mặt khô nhăn nẻ, tay chân bị cước cũng có thể dùng lá mồng tơi như
vậy. Chú ý rau mồng tơi phải rửa sạch.
(Theo BS. Phó Thuần Hương-sk&đs).
Các tài liệu đọc thêm:
Mồng tơi Basella alba, B. ruba (Worldcrops.org).
Tài liệu
tham khảo
8-http://www.botanyvn.com/cnt.asp?param=edir&v=Basella_rubra_t=species
Kỹ sư Hồ Đình Hải
Xem video: Vị thuốc từ rau mồng tơi
Kỹ sư Hồ Đình Hải
Xem video: Vị thuốc từ rau mồng tơi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét