Cây chuối

CÂY CHUỐI

Kỹ sư Hồ Đình Hải
Cập nhật ngày 7 tháng 8 năm 2013

Cây chuối

Một buồng chuối xiêm
Tên gọi và danh pháp khoa học
-Các tên gọi: Chuối già, chuối tiêu, chuối lùn, chuối xiêm, chuối sứ, chuối ngự,  chuối bơm, chuối hột…
-Tên tiếng Anh: Banana (chuối ăn tươi), Plantain (chuối cứng, chuốt bột).
-Tên khoa học: Musa spp.
-Tên đồng nghĩa:
-Chi tương cận: Chi Ensete
Phân loại khoa học

Bộ (ordo)
Gừng (Zingiberales)
Họ (familia)
Chuối (Musaceae)
Chi (genus)
Chuối (Musa L.)
Loài (species)
Musa spp.

+Hệ thống phân loại
Họ Chuối (Musaceae) thuộc thực vật một lá mầm (Monocots) có 2 chi. Đó là:
-Chi chuối ăn (Musa) có nguồn gốc ở Đông Nam Á.
-Chi chuối cảnh (Ensete) có nguồn gốc ở Đông Phi.
Chi Chuối ăn (Musa) bao gồm hai nhóm:
-Nhóm chuối mềm (banana) là những loài chuối khi chín quả mềm, bốc vỏ được và dùng để ăn tươi.
Trong tiếng Anh từ “Banana” (chuối) để chỉ các loài chuối mềm được cho là bắt nguồn từ ngôn ngữ  Wolof  do từ “banaana”.
-Nhóm chuối cứng (Plantains) là những loài chuối có quả khi chín vẩn cứng rắn, không bốc vỏ được, phải dùng dao để gọt. Chuối cứng trước khi ăn phải nấu hoặc chiên, là nguồn cung cấp tinh bột quan trọng ở các nước nhiệt đới đang phát triển như Châu Á, Châu Phi và Nam Mỹ.
Trong tiếng Anh từ “plantain” có nguồn gốc tiếng Latin đễ chỉ loài cây có tán rộng, do các loài chuối này mọc khỏe, có tán lá rậm rạp.
Hiện nay các nhà khoa học công nhận khoảng 50 loài chuối thuộc Chi Musa với nhiều công dụng khác nhau đối với con người như lấy quả, lấy lá, lấy sợi, làm rau, làm cây cảnh...
Trong tiếng Việt được gọi chung là “cây chuối”.
Cần lưu rằng cây Chuối rẻ quạt ở Việt Nam được trồng làm cây cảnh phổ biến cũng được gọi là "Chuối" nhưng thực ra loài này thuộc Họ Strelitziaceae, có tên khoa học là Ravenala madagascariensis không có liên quan đến Họ chuối.

Cây chuối rẻ quạt không thuộc loài chuối
Các loài chuối trên thế giới gồm có khoảng 50 loài được mô tả: (xem văn bản).
Ba loài chuối hoang dại quan trọng được công nhận là tổ tiên của tất cả các loài chuối hoang và chuối trồng phổ biến hiện nay là:
1-Loài chuối hột hoang dã (Musa acuminata Colla). (ký hiệu “A”).
2-Loài chuối hột hoang dã (Musa balbisiana Colla). (ký hiệu “B”).
3-Loài chuối lai hoang dã (Musa × paradisiaca L.) được lai bởi hai loài  M. acuminata [A] và M. balbisiana [B],  là tổ tiên của các loài chuối trồng cao sản không hạt phổ biến hiện nay.
+Lịch sử phân loại khoa học các loài chuối
Việc phân loại khoa học Chi chuối (Musa) do Carl Linnaeus công bố lần đầu tiên vào năm 1753. Nguồn gốc tên Musa do Linnaeus đặt có thể do hai giả thuyết sau đây:
1- Musa bắt nguồn từ Antonius Musa, tên của nhà thực vật học và là bác sĩ chuyên trị bệnh cho hoàng đế La Mã đầu tiên Augustus trước CN.
2- Hoặc từ tiếng Ả Rậpmauz để gọi tên “chuối ” được Linnaeus dịch sang tiếng Latin là Musa. Từ Mauz (tiếng Ả Rập) dịch sang Musa (tiếng Latin) đã có trong Bách khoa toàn thư tiếng Ả Rập ở thế kỷ 11 trong “Quy chuẩn y học” của Avicenna. Trong khi đó từ “Mauz” cũng là từ trong tiếng Ba Tư và Thổ Nhĩ Kỳ để chỉ “quả chuối”.
Thời Linnaeus chỉ mô tả có hai loài chuối dựa theo công dụng quả của chúng, đó là:
1-Loài chuối tráng miệng (Musa sapientum) tiếng Anh là “banana”, bao gồm những giống chuối khi chín có quả mềm, vỏ quả bốc ra được, được dùng để ăn tươi. Quả của loài chuối này khi chín có hàm lượng nước khoảng 73% nên còn được gọi là chuối mềm.
2-Loài chuối cứng (Musa paradisiaca) tiếng Anh gọi là “plantains”, bao gồm những giống chuối khi chín có quả cứng, không bốc vỏ được và phải gọt, được dùng để nấu hoặc chiên, xào trước khi ăn. Quả của loài chuối này khi chín có hàm lượng nước khoảng 64% và giàu tinh bột nên cứng khi chín nên còn được gọi là chuối cứng.
Từ đó trở về sau có nhiều loài chuối mới được mô tả và bổ sung vào danh sách phân loại.
Vào năm 1820, nhà thực vật học người Ý Luigi Aloysius Colla (1766-1848) đã mô tả hai loài chuối hoang dại Musa acuminata Musa balbisiana , cả hai loài sau này được công nhận là Tổ tiên của tất cả các loài chuối hoang và chuối trồng.
Vào năm 1862 Paul Fedorowitsch Horaninow (1796-1865), đã phát hiện ra loài chuối Đông Phi khác biệt với các loài chuối bình thường và ông lập ra một chi mới là Chi chuối Châu Phi (Ensete) và mô tả được 1 loài duy nhất là Ensete edule khác xa với các loài trong Chi chuối thường (Musa) , tuy nhiên chưa được chấp nhận.
Vào năm 1947 trở đi, nhà thực vật người Anh nổi tiếng về phân loại chuối là Ernest Entwistle Cheesman (1898-1983) đã phục hồi lại Chi Ensete và ông đã mô tả được loài đầu tiên trong chi này là Ensete ventricosum (theo Tạp chí Kew Bulletin -1948). Tiếp sau đó ông đã mô tả thêm khoảng 25 loài trong chi Ensete.Đặc điểm của Chi Ensete là phát hoa mọc thẳng đứng ở đỉnh ngọn cây.
Từ đó trong Họ chuối (Musaceae) đã có hai chi là Musa Ensete.
Ernest Cheesman cũng đã cho biết hai loài chuối ban đầu do Linnaeus mô tả là loài chuối tráng miệng Musa sapientum và loài chuối bột Musa paradisiaca chính là  con cháu của 2 loài chuối hột hoang dã Musa acuminata Musa balbisiana , cả hai đều được mô tả lần đầu tiên bởi Luigi Aloysius Colla (1860).
Từ thời của Linnaeus (thế kỷ 18) cho tới thập niên 1940s thì các loài chuối ăn tươi (banana) và chuối bột (plantains) đã được đặt tên hai phần theo kiểu Linnaeus, như:
Musa sapientum , Musa paradisiaca, Musa acuminata , Musa balbisiana
Cách gọi như thế xem như thể chúng là các loài khác biệt rất xa nhau.
Việc đặt tên loài chuối vô cùng phức tạp vì các loài chuối trồng chủ yếu phát sinh từ hai loài chuối hột hoang dã là loài Musa acuminata và loài Musa balbisiana) cùng với các loài chuối được lai giữa hai loài này dẫn đến sự phức tạp trong phân loại các loài chuối.
Trong thập niên 1940s đã có đề nghị là không nên đặt tên hai phần kiểu Linneus cho các loại chuối mềm (banana) và chuối bột (plantains) được con người gieo trồng, mà tốt nhất nên đưa ra cho chúng các tên gọi của giống (species) cây trồng. Một hệ thống thay thế dựa trên bộ gen để đặt danh pháp cho các loại chuối trong các Phân chi của Chi Musa cũng đã được đề ra.
Ernest Entwistle Cheesman đã thực hiện các sửa đổi lớn đối trong phân loại Họ chuối (Musaceae). Từ đó Chi chuối (Musa) theo truyền thống được phân chia thành 5 Phân chi (hay đoạn), đó là:
(1)Ingentimusa, (2) Australimusa, (3) Callimusa, (4) Musa , (5) Rhodochlamys
Đến năm 2012 được rút lại còn 3 Phân chi.
Vào năm 1955 các nhà nghiên cứu Norman SimmondsKen Shepherd đã đề xuất một hệ thống danh pháp dựa vào kiểu phối hợp gen của các giống chuối. Theo Hệ thống này đã loại bỏ gần như tất cả những khó khăn và mâu thuẫn của việc phân loại trước đó của chuối dựa trên tên khoa học đối với giống chuối trồng. Mặc dù vậy, tên ban đầu vẫn còn được công nhận bởi một số cơ quan hiện nay, dẫn đến nhầm lẫn.
Theo Hệ thống gen, hai loài là tổ tiên của tất cả giống chuối ngày nay là:
1-Musa acuminata (loài chuối hột hoang dại), ký hiệu là “A”.
2-Musa balbisiana (một loài chuối hột hoang dại khác, ký hiệu là “B”.
Theo cách phân loại này, toàn bộ các kiểu gen của các loài chuối trên thế giới gồm có:
+Nhóm đơn bội: Có các kiểu gen ‘A’ và ‘B’
-Loài chuối hột hoang Musa acuminata  [A].
-Loài chuối hột hoang Musa balbisiana [B].
+Nhóm chuối nhị bội: Có các kiểu gen [AA], [AB] và [BB]
+Nhóm chuối tam bội: Có các kiểu gen [AAA], [AAB], [ABB] và [BBB].
+Nhóm chuối tứ bội: Có các kiểu gen: [AAAA], [AAAB], [AABB], [ABBB] và [BBBB].
Xem Danh sách các giống chuối theo kiểu gen [A] & [B].
Đến năm 2002 hệ thống phân loại chuối vẫn dựa theo cách chia ra các Phân chi hay Đoạn theo Ernest Entwistle Cheesman nhưng Chi chuối được rút lại còn 3 Phân chi. Ở thời điểm này các nhà khoa học công nhận khoảng 50 loài thuộc chi Musa với nhiều công dụng khác nhau đối với con người như lấy quả, lấy lá, lấy sợi, làm rau, làm cây cảnh... (xem văn bản).
Trong hệ thống APG III (2009) dựa trên sinh học phân tử, Họ Chuối (Musaceae)  được xếp vào Bộ gừng (Zingiberales). Trong năm 2013 Họ chuối có khoảng 70 loài được công nhận, trong đó có một số ít loài có quả ăn được còn lại đa số là các loài chuối làm cây cảnh.
Nguồn gốc và phân bố
+Nguồn gốc các loài chuối trên thế giới
Chi chuối (Musa) có nguồn gốc từ vùng Châu Á nhiệt đới và được thuần hóa rất sớm ở vùng Đông Nam Á. Nhiều loài chuối dại vẫn còn mọc lên ở New Guinea, Malaysia,  Indonesia, và Philippines.

Nguồn gốc phát sinh của các loài hoang dại đầu tiên của Chi chuối
(A) Màu xanh lá cây: Loài chuối hột hoang dại Musa acuminata
(B) Màu vàng: Loài chuối hột hoang dại Musa balbisiana
Gần đây, di tích về khảo cổ học và môi trường cổ tại đầm lầy Kuk ở tỉnh Cao Nguyên Tây, Papua New Guinea gợi ý rằng chuối được trồng ở đấy bắt đầu trễ nhất khoảng 5000 năm TCN, nhưng có thể từ 8000 TCN. Vụ khám phá này có nghĩa rằng cao nguyên New Guinea là nơi mà chuối được thuần hóa đầu tiên. Có lẽ những loài chuối dại khác được trồng ở những vùng khác tại Đông Nam Á.
Một số vùng cô lập ở Trung Đông có thể trồng chuối từ thời gian trước khi Hồi giáo ra đời. Có chứng cớ trong văn kiện rằng nhà tiên tri Muhammad đã biết ăn chuối. Sau đó, văn minh Hồi giáo trải ra nhiều nước, và chuối đi theo. Những văn kiện Hồi giáo (như là bài thơ và truyện thánh) nói đến chuối nhiều lần, bắt đầu từ thế kỷ 9. Vào thế kỷ 10, những văn kiện PalestineAi Cập đã nói đến chuối; từ đấy, chuối lan qua Bắc PhiTây Ban Nha Hồi giáo. Thực tế là vào thời Trung cổ, chuối từ Granada (Tây Ban Nha) được coi là những chuối ngon nhất trong thế giới Ả Rập.
Các phytolith được khám phá trong một số cây chuối hóa thạch ở Cameroon từ thiên niên kỷ 1 TCN đã gây ra cuộc tranh luận về lúc bắt đầu trồng cây chuối ở châu Phi. Có chứng cứ ngôn ngữ học rằng người Madagascar đã biết về chuối vào lúc đó. Trước các khám phá này, chứng cớ sớm nhất về sự trồng chuối ở châu Phi có từ cuối thế kỷ 6 CN về sau. Người Hồi giáo Ả Rập đã từng buôn chuối từ bờ biển đông của châu Phi đến bờ biển Đại Tây Dương và về phía nam tới Madagascar. Năm 650, quân đội Hồi giáo mang chuối đến vùng Palestine.
Các loài chuối lai (Musa × paradisiaca L.) với nhiều giống được thuần hóa gồm hầu hết các loài chuối không hạt (parthenocarpic banana) được trồng phổ biến hiện nay.
Hiện nay trên thế giới có ít nhất 107 quốc gia trồng chuối với nhiều mục đích khác nhau: chủ yếu dùng làm trái cây, kế đến là dùng để lấy sợi , sản xuất rượu chuối và làm cây cảnh.
-
Các vùng trồng chuối trên thế giới
Vào năm 2013 chuối đứng hàng thứ tư về giá trị tài chính trong các cây lương thực chính trên thế giới (sau gạo, lúa mì và ngô).
+Các loài và giống chuối phổ biến trên thế giới

Các loài chuối quan trọng trên thế giới
1-Chuối bột, 2-Chuối cơm lửa, 3-Chuối goòng, 4-Chuối tiêu lùn
Hầu hết các giống chuối ăn quả hiện đại là giống lai đa bội của các loài chuối hoang dại của chúng là là loài chuối hột hoang Musa acuminata  loài chuối hột hoang Musa balbisiana. Hầu hết các giống chuối này không có hạt và sinh sản vô tính. Chúng được phân loại dựa trên hệ thống do Ernest Cheesman, Norman Simmonds và Ken Shepherd đưa ra.
'A' là kiểu gen của Musa acuminata, 'B' là kiểu gen của Musa balbisiana. Các kiểu gen đa bội là kết hợp giữa hai kiểu gen A và B. Các dạng đa bội của Musa acuminata thường dùng để ăn tươi trong khi các dạng đa bội của Musa balbisiana và các giống lai giữa hai kiểu gen thường được dùng để chế biến công nghiệp.
+ Các loài chuối hoang dại:
1-Loài chuối hột hoang dã (Musa acuminata Colla). (ký hiệu “A”).
2-Loài chuối hột hoang dã (Musa balbisiana Colla). (ký hiệu “B”).
3-Loài chuối lai hoang dã (Musa × paradisiaca L.)
4-Loài chuối hồng hoang dã (M. velutina H.Wendl. & Drude)
5-Loài chuối rừng Vân Nam (M. yunnanensis Häkkinen & H.Wang)
6-Loài chuối sợi Nhật bản (M. basjoo Siebold & Zucc. ex Iinuma)
7-Chuối hoang Đông Phi (Musa acuminata ssp. zebrina)
Và nhiều loài chuối hoang dại khác.
+Các loài chuối ăn tươi (banana)
Có hai nhóm: Chuối không hạt và chuối có hạt.
Nhóm chuối không hạt (parthenocarpic banana) được gọi theo tiếng Anh gọi là “banana”. Panana là các loài chuối khi chín quả mềm, ngọt, dể bốc vỏ, được dùng để ăn tươi khi quả đã chín. Đây là nhóm chuối được trồng phố biến ở tất cả các nước và được mua bán trên thị trường ở các nước trồng chuối.
Nhóm chuối không hạt bao gồm các loài chuối lai (Musa × paradisiaca L.) có kiểu gen đa bội mà trong đó kiểu gen ‘A’ là nổi trội như: AA, AAA, AAAA, AAAB, AAB, AB.
Các giống chuối ăn tươi phổ biến trên thế giới gồm có:
1-Nhóm AA
-Chuối tiêu cao =Chuối rừng Musa acuminata song bội
-Chuối trứng
-Chuối tay bụt
-Chuối cau trắng
-Chuối ngự thóc
-Chuối ngự tiến
-Chuối tiến
-Chuối cau mẫn

Chuối tiêu Việt Nam
2-Nhóm AAA
-Chuối rừng Musa acuminata tam bội
-Chuối tiêu lùn (chuối Cavendish)
-Chuối tiêu nhỡ (chuối Giant Cavendish)
-Chuối tiêu cao (giống cây tam bội)
-Chuối già hương (chuối Chiquita)
-Chuối cơm lửa (chuối cau lửa)
-Chuối tiêu xanh (chuối Robusta)
-Chuối cao nguyên Đông Phi (phân nhóm AAA-EA)
-Chuối tiêu vừa
-Chuối bom
-Chuối lá rừng (nhóm AAA)
-Chuối cau tây
-Chuối tiêu cao hồng


Chuối tiêu xuất khẩu nhóm Cavendish

Chuối hột rừng tam bội (AAA) Ấn Độ
3-Nhóm AAAA
-Chuối rừng Musa acuminata tứ bội
3-Nhóm AAAA
-Chuối rừng Musa acuminata tứ bội
4-Nhóm AAAB
-Chuối Atan banana
-Chuối Goldfinger banana

Chuối Goldenfinger Banama
5-Nhóm AAB
-Chuối goòng
-Chuối cơm chua
-Chuối trăm nải
-Chuối mướp
-Chuối sừng bò
-Chuối voi
-Chuối mắn
-Chuối tây bột
-Chuối chà
-Chuối xiêm mật

Chuối xiêm
6-Nhóm AABB
-Chưa thấy tài liệu
7-Nhóm AB
-Chuối mít
-Chuối thơm
-Chuối nanh heo
+ Các loài chuối lấy bột (Plantains)
1-Nhóm BB
-Chuối dại Musa balbisiana song bội
2-Nhóm BBB
-Chuối dại Musa balbisiana tam bội
Nhóm ABBB
+Các loài chuối lấy có công dụng khác
+Chuối lấy lá
-Chuối lá rừng (nhóm AAA)
+Chuối hột làm thuốc
-Chuối dại Musa balbisiana song bội (Nhóm BB)
-Chuối hột rừng Musa balbisiana (nhị bội- nhóm BB)
-Chuối hột trồng Musa balbisiana (tam bội- nhóm BB)
+Chuối cảnh
-Chuối trăm nải (nhóm ABB)
-Rất nhiều loài dơn bội và đa bội được trồng.

Chuối rừng Musa velutina
+Các loài và giống chuối trồng phổ biến ở Việt Nam
+Nhóm chuối hoang dại
-Chuối hột rừng Musa balbisiana (nhị bội- nhóm BB)
+Nhóm chuối ăn có quả không hạt
1. Nhóm chuối tiêu (Cavendish): Nhóm này có 3 giống là tiêu lùn, tiêu nhỏ, tiêu cao. Năng suất quả từ trung bình đến rất cao; phẩm chất thơm ngon, thích hợp cho xuất khẩu quả tươi, thích hợp với vùng có khí hậu mùa đông lạnh. Giống chuối tiêu ở Miền Bắc bình quân đạt 13-14kg/buồng, năng suất trung bình đạt 12-15 tấn/ha.

Chuối tiêu (Bắc Bộ VN)

Chuối già hương (Nam Bộ VN)
2-Nhóm chuối tây (chối sứ, chuối xiêm): gồm các giống chuối tây hồng, tây phấn, tây sứ, được trồng phổ biến ở nhiều nơi, cây cao sinh trưởng khoẻ, không kén đất, chịu hạn nóng và khả năng chịu hạn song dễ bị héo rụi (vàng lá Panama), quả to, mập, ngọt đậm và kém thơm hơn so với giống khác.

Chuối xiêm

Nải chuối xiêm
3-Nhóm Chuối bom (bôm): được trồng phổ biến ở Đông Nam Bộ, trọng lượng buồng thấp, chỉ đạt từ 6-8 kg/buồng. Thời gian sinh trưởng ngắn  nên hệ số sản xuất cao (5 buồng trong 20 tháng/gốc) có có thể trồng ở mật độ cao 1200-1500 cây/ha nên năng suất có thể đạt 25-40 tấn/ha. Quả được dùng làm ăn tươi, chuối sấy.

Chuối bom (vàng) so với chuối xiêm (trên) và chuối già (phải)
4-Nhóm Chuối  ngự: Bao gồm chuối ngự tiến, chuối ngự mắn. Cây cao 2,5-3 m, cho quả nhỏ, màu vỏ sáng đẹp, thịt quả chắc, vị thơm đặc biệt, tuy nhiên năng suất thấp.

Chuối ngự
5-Nhóm Chuối ngốp: Bao gồm giống ngốp cao, ngốp thấp. Là nhóm có chiều cao cây từ 3-5 m. Cây sinh trưởng khoẻ, chịu bóng, ít sâu bệnh, chịu hạn khá, thích hợ với vùng đồi. Quả tương đối lớn, vỏ dầy, nâu đen khi chín, thịt quả nhão, hơi chua.
6-Nhóm chuối hột: Bao gồm chuối hột rừng và chuối hột trồng.
-Chuối hột rừng Musa balbisiana nhị bội (là loài chuối nhị bội có kiểu gen BB), loài này mọc hoang trong rừng được khai thác làm thuốc.
-Chuối hột trồng Musa balbisiana tam bội (là loài tam bội có kiểu gen BBB), loài này được trồng chủ yếu dùng thân và bắp chuối để làm rau, quả to khi chín ăn được, chủ yếu để ngâm rượu thuốc (rượu chuối hột). Hạt của loài này được bán ở dạng nguyên hạt hoặc xay thành bột để làm thuốc.

Quài Chuối hột

Quả chuối hột chưa chín
7-Nhóm chuối làm cây cảnh: Có rất nhiều loài từ đơn bội đến đa bội. Loài phổ biến nhất là chuối trăn nải (nhóm ABB).
Ngoài ra còn các giống chuối mắn, chuối lá, nhưng các giống chuối này có diện tích trồng ít vì giá trị kinh tế thấp.

Chuối trăm nải
Nguồn: Nguyễn Thị Diệu Thuý- Phòng BQCB, luận văn Thạc sỹ, 2003.
+Đánh giá của các chuyên gia nước ngoài về chuối ở Việt Nam
Việt Nam là một nước nằm trong vùng phát sinh của các loài chuối hoang dại và chuối trồng.
Persley, GJ và Pamela George (1996) đã đánh giá:
"Việt Nam là một trong những trung tâm xuất xứ của các giống chuối Musa spp., và có nhiều loài, giống, và nhân bản .... Các giống thương mại xuất khẩu chuối của Việt Nam chủ yếu dựa trên các giống địa phương thuộc nhóm giống chuối Cavendish có nguồn gốc bản địa ở Việt Nam ".
Nguồn: Banana Improvement- Research Challenges and Opportunities
Mô tả
Đặc điểm chung của Chi chuối (Musa) là những loài thực vật một lá mầm, có hoa, thuộc loại cây thân thảo khổng lồ.
+Thân
Thân chuối có hai phần:
-Thân thật (corm) : Tất cả các bộ phận trên mặt đất của một cây chuối phát triển từ một cấu trúc thường được gọi là một thân thật, trong tiếng Anh gọi là " corm ". Đó là một khối mang nhiều sẹo của bẹ lá nằm ở mặt đất, khi cây đã lớn khối thân thật hình chóp nhọn có thể cao đến 25 cm trên mặt đất. Khi cây mang hoa, kết quả phần đỉnh của thân thật chính là lỏi của cây chuối mang phát hoa vượt lên tới trên ngọn.
Tàn dư thân thật (corm) của cây chuối (cao khoảng 25 cm).

Tàn dư của thân thật cây chuối
-Thân giả (pseudostem): Mặc dù nhìn bề ngoài các loài chuối có thân bụi mọc cao nhưng thân chuối thật ra là thân giả do các bẹ lá tạo thành. Các bẹ lá cuốn sát nhau tạo thành một khối hình trụ dẻo dai, gồm những khối sợi và những ô rổng mọng nước. Thân cây chuối cao từ 3-6 m.

Thân thật cây chuối
+Rể
Bộ rể chùm phát triển mạnh và lan rộng. Chuối phát triển trong nhiều loại đất, miễn là đất sâu ít nhất là 60 cm, có hệ thống thoát nước tốt và không được dẻ chặt.
+Lá
Lá được sắp xếp theo vòng xoắn và gồm có ba phần:
-Bẹ lá: Mọc từ thân chính dưới mặt đất, các bẹ lá cuộn chặt vào nhau tạo nên thân giả. Bẹ lá có nhiều chất xơ và các lổ rổng, xốp, mọng nước. Tiết diện của bẹ lá hình vàng khăn mỏng, 2 bề mặt của bẹ là nhẳn bóng. Chiều dài của mỗi bẹ lá quyết định chiều cao của thân chính khi lá đã phát triển.
-Cuống lá: Từ phần cuối của bẹ cho đến phiến lá, dàu khoảng 20-40 cm.
-Phiến lá: Phiến lá đơn, to, rộng, dài 1-2 m, rộng 0,3-0,6 m, có cuốn lá chạy dọc đến chóp lá. Phiến lá dể bị rách do giông gió, phiến lá được dùng để lót, gói thực phẩm, gói bánh…

Lá chuối
+Hoa
Phát hoa mọc từ đỉnh của thân chính (lỏi chuối) ở ngọn gọi là “bắp chuối”, khi phát hoa nở và kết quả gọi là “buồng chuối”. Trong mỗi lá đài hoa sắp thành hai hàng tạo để sau này tạo thành “nải chuối”.
Hoa có 5 tiểu nhụy, bầu noãn 3 tâm bì tạo thành 3 ngăn, mỗi ngăn có nhiều tiểu noãn. Vòi nhụy duy nhất với nuốm hình chùy.
Các hoa đực nằm ở phần nải trên của bắp chuối thường không được nở ra.
Các hoa nằm ở phần phía gốc của bắp chuối là hoa lưỡng tính, sau này đậu quả thành những nãi chuối.

Khi phát hoa nở và kết quả được gọi là “quài chuối” hay “buồng chuối”. Trong các giống chuối phổ biến mỗi quài chuối chỉ có 5-10 nãi chuối, phần còn lại là hoa đực không phát triển thành quả và còn nằm lại trong bắp chuối. Bắp chuối của các giống chuối xiêm và chuối hột dùng làm rau ăn được. Ở những giống chuối làm cây cảnh mỗi quài chuối có thể nở ra đến cả trăm nãi chuối.

Phát hoa (Bắp chuối) tiêu mới nở

Phát hoa (Bắp chuối) tiêu đã nở
+Quả
Quả chuối được hình thành từ các hoa lưỡng tính ở phần gốc của phát hoa. Bên trong mỗi là đài có một nãi chuối được xếp thành hai hàng, mỗi nãi chuối có từ 10-30 quả. Trong tiếng Anh nãi chuối chuối được gọi khôi hài là “ .”  (bàn tay) và quả chuối là “ .” (ngón tay). Trọng lượng mỗi quả từ 100-300 g.
Trong phần thịt ăn được của của các loài Chuối Cavendish có khoảng 75% là nước và 25% chất khô.

Quài chuối già lùn
Dạng chuối xuất khẩu được ưa chuộng trên thé giới
+Hạt
Tùy theo giống chuối, quả chuối có thể có nhiều hạt (như chuối hột), ít hạt (như chuối xiêm thỉnh thoảng có vài hạt), chuối già không có hạt. Quả không có hạt gọi là trinh quả. Các loại chuối có hạt, hạt màu đen, rắn chắc. Hạt chuối được dùng để ngâm rượu hoặc làm thuốc.

Quả chuối hạt
Thần phần dinh dưỡng của quả chuối
Thành phần dinh dưỡng của quả chuối ăn tươi (banana) nhóm Cavendish
Theo phân tích của Bộ Nông Nghiệp Mỹ (USDA) thành phần dinh dưỡng trong 100 gam phần ăn được của quả chuối nhóm Cavendish (chuối tiêu) được xuất khẩu chính trên thị trường thế giới như sau:

Chuối ăn tươi nhóm Cavendish (chuối tiêu)
Giá trị dinh dưỡng trên 100 g quả chín
371 kJ (89 kcal)
22,84 g
12,23 g
2,6 g
0,33 g
1,09 g
0.031 mg (3%)
0,073 mg (6%)
0.665 mg (4%)
Pantothenic acid (B 5 )
0,334 mg (7%)
0,4 mg (31%)
Folate (vit. B 9 )
20 mg (5%)
9,8 mg (2%)
8,7 mg (10%)
0,26 mg (2%)
27 mg (8%)
0,27 mg (13%)
22 mg (3%)
358 mg (8%)
1 mg (0%)
0,15 mg (2%)
2,2 mg

Thành phần dinh dưỡng của quả chuối cứng/chuối bột (Plantain)
Theo phân tích của Bộ Nông Nghiệp Mỹ (USDA) thành phần dinh dưỡng trong 100 gam phần ăn được của quả chuối cứng/chuối bột (Plantain) như sau:

Quả chuối cứng (chuối bột) chín
Giá trị dinh dưỡng trong 100 g phần ruột ăn được
510 kJ (120 kcal)
31.89 g
15 g
2.3 g
0.37 g
1.3 g
Vitamin A equiv.
56 μg (7%)
457 μg (4%)
0.052 mg (5%)
0.054 mg (5%)
0.686 mg (5%)
0.26 mg (5%)
0.299 mg (23%)
Folate (vit. B9)
22 μg (6%)
13.5 mg (3%)
18.4 mg (22%)
0.14 mg (1%)
0.7 μg (1%)
3 mg (0%)
0.6 mg (5%)
37 mg (10%)
34 mg (5%)
499 mg (11%)
4 mg (0%)
0.14 mg (1%)
Các công dụng của chuối
Quả chuối chín được dùng để ăn tươi
Công dụng chính của cây chuối là dùng quả chín để ăn tươi. Đây là loại trái cây nhiệt đới được trồng phổ biến ở Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ Latin và Châu Úc. Các nước vùng ôn đới không trồng được chuối nhưng là vùng nhập khẩu nhiều chuối nhất.
Nhóm chuối ăn quả tươi có rất nhiều loài, nhưng chuối được xuất khẩu chủ yếu là nhóm chuối Cavendish (chuối tiêu) khi chín có vỏ quả màu vàng.
Quả chuối nhóm Cavendish (chuối tiêu) dạng xuất khẩu

Ăn chuối
Quả chuối chín được chế biến
Bên cạnh việc dùng quả để ăn tươi, ở Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ Latin quả chuối mềm cũng còn được chế biến nhiều thức ăn như:
-Món canh chuối: Là món canh chay đơn giản phổ biến ở Việt Nam và nhiều nước Đông Nam Á.
-Món canh kiểm: Phổ biến ở Miền Nam Việt Nam. Món này được nấu bằng chuối xiêm chín với khoai mì, khoai lang, bí rợ trong nước cốt dừa.
-Chuối nấu: Các loài chuối xiêm, chuối sứ, chuối sáp…được để cả vỏ luộc chín và bán nơi công cộng, vĩa hè…
-Chuối phơi khô, chuốt sấy: Chuối xiêm, chuối sứ được ép dẹp và phơi khô để ăn dần. Đây là cách bảo quản có hiệu quả khi chuối chín ăn tươi không hết. Ngoài cách phơi khô chuối chín còn được sấy khô để làm mứt chuối, nhân bánh in làm bằng bột gạo hoặc nếp rang.

Canh chuối

Canh kiểm nước cốt dừa
Quả chuốt cứng dùng làm lương thực
Ở Châu Phi và Nam Mỹ, quả chuối cứng hay chuối bột được trồng phổ biến để dùng làm lương thực chính trong bữa ăn hàng ngày. Các loài chuối này khi ăn phải gọt vỏ, luộc, chiên, nấu như khoai tây. Ngoài ra chuốt bột còn được sấy khô xay thành bột đun với nước sôi để có món hồ bột chuối dùng cho trẻ em thay sữa và người lớn dùng như món tráng miệng.

Chuối cứng (Plantains)

Chuối cứng chiên

Chuối cứng nấu ở Ghana, Châu Phi
Quả và hạt chuối hột được dùng để ngâm rượu
Ở Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Các nước Đông Nam Á khác và Ấn Độ dùng quả chuối hột chín hoặc hạt chuối hột rừng hay chuối hột trồng (để nguyên hoặc xay nhuyễn) để ngâm rượu. Rượu đế ngâm chuối hột được dùng phổ biến ở Nam Bộ Việt Nam. Rượu chuối hột còn được sản xuất quy mô lớn để bán trên thị trường.

Rượu chuối hột thủ công

Rượu chuối hột công nghiệp
Thân , bắp chuối và quả chuối được dùng làm rau
Thân cây, bắp chuối và quả xanh của các loài chuối hột, chuối xiêm và chuối sứ cũng được dùng làm rau rất phổ biến ở Việt Nam và nhiều nước Châu Á. Các bộ phận nêu trên của cây chuối được xắt mỏng theo chiều ngang để làm rau ăn sống, các món nộm, gỏi hoặc nấu canh chua, lẫu chua.

Rau chuối hột

Nộm bắp chuối

Gỏi bắp chuối
Chuối được dùng làm cây cảnh
Nhều loài chuối hoang dại và chuối trồng có hình dạng và màu sắc đẹp được trồng làm cây cảnh ở nhiều nước trên thế giới. Bộ sưu tập chuối cảnh rất phong phú và chính những loài này còn nhiều rắc rối trong phân loại chuối.

Cây chuối cảnh
Các bộ phận cây chuối được dùng làm thuốc
Ở Việt nam và Trung Quốc cây chuối, đặc biệt là chuối rừng, chuối hột, chuối xiêm, chuối sứ còn là nguồn dược liệu trong Đông y để trị nhều loại bệnh như đau nhứt xương, bệnh thận, tểu đường…
Các công dụng khác của cây chuối
Ngoài ra cây chuối còn một số công dụng khác như:
-Một số loài chuối cứng được lấy nhựa từ chồi non để làm keo dán trong dân dụng.
-Một số loài chuối chuyên lấy sợi dùng như sợi đay hoặc dùng để làm giấy.
-Nước tro bẹ chuối xiêm, chuối sứ được ngâm để tạo chất kết tủa trong sản xuất đậu hũ, mì căn…
Tình hình trồng chuối trên thế giới
Hiện trạng
Chuối là cây ăn quả bản địa ở Châu Á, là một trong những loại cây ăn quả dể trồng và có nhiều công dụng, rất phổ biến và quen thuộc với nhiều quốc gia vùng nhiệt đới, là nguồn cung cấp chất đường bột quan trọng ở các nước đang phát triển.
Hiện nay trên thế giới có ít nhất 107 quốc gia trồng chuối với nhiều mục đích khác nhau: chủ yếu dùng làm trái cây, kế đến là dùng để lấy sợi , sản xuất rượu chuối và làm cây cảnh.

Các vùng trồng chuối trên thế giới
Một quả chuối cung cấp một lượng calo tương đương với một củ khoai tây. Do đó chuối và chuối bột rất quan trọng để giữ vững an ninh lương thực toàn cầu và là giải pháp xóa đói giảm nghèo ở các nướng đang phát triển vùng nhiệt đới.
Vào năm 2013 chuối đứng hàng thứ tư về giá trị tài chính trong các cây lương thực chính trên thế giới (sau gạo, lúa mì và ngô).
Các nước trồng và xuất khẩu chuối hàng đầu trên thế giới
Theo thống kê của FAO, 10 quốc gia sản xuất chuối và chuối bột hàng đầu thế giới trong năm 2011 gồm có:
1-Ấn Độ, 2-Uganda, 3-Trung Quốc, 4-Philippines, 5-Ecuador, 6-Brazil, 7-Indonesia, 8-Colombia, 9- Cameroon và 10- Tanzania đã sản xuất được 59,9 triệu tấn chuối so toàn thế giới là 145,5 triệu tấn, chiếm 66%. Trong đó dẫn đầu là Ấn Độ sản xuất 29,7 triệu tấn , đạt 20% so thế giới.
Năm nước xuất khẩu sản phẩm chuối hàng đầu trên thế giới (2011) gồm:
1-Ecuador, 2-Costa Rica, 3-Colombia, 4-Philippines, 5-Guatemala đạt 11,9 triệu tấn, so toàn thế giới là 17,9 triệu tấn, chiếm tỷ lệ 66%. Trong đó dẫn đầu là Ecuador xuất khẩu được 5,2 triệu tấn, chiếm 29%.
Thị trường nhập khẩu chuối mạnh nhất là Mỹ và Châu Âu, do đó chuối và các sản phẩm từ chuối nói chung là lợi thế ở các nước đang phát triển ở vùng nhiệt đới thuộc Châu Á, Châu Phi và Nam Mỹ.

Sản xuất và xuất khẩu chuối và chuối bột của các nước (2011)
Quốc gia
Triệu 
tấn
Tỷ lệ % so tổng số 
của thế giới 
Bảng 1: Sản xuất
29,7
20%
11.1
8%
10,7
7%
9.2
6%
8.0
6%
7.3
5%
6.1
4%
5.1
4%
4.8
3%
3.9
3%
Tất cả các nước khác
49,6
34%
Toàn thế giới
145,4
100%
Bảng 2: Xuất khẩu
5.2
29%
1.8
10%
1.8
10%
1.6
9%
1.5
8%
Tất cả các nước khác
6.0
34%
Toàn thế giới
17,9
100%
Nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Những cánh đồng chuối ở  Ecuador
Triển vọng và nguy cơ của cây chuối thế giới
+Triển vọng
Cây chuối là loại cây ăn quả và cây lương thực ở vùng nhiệt đới. Việc trồng cây chuối trước mắt giải quyết được một phần nhu cầu chất đường bột  cho cộng đồng dân cư tại chổ ở các nước đang phát triển còn nhiều khó khăn về lương thực.
Việc trồng cây chuối theo hướng thâm canh để thu hoạch quả đồng loạt là một nhu cầu cần thiết để nhằm vào mục tiêu xuất khẩu chuối ăn tươi, một thị trường rộng mở ở các nước ôn đới rất thích ăn chuối nhưng không trồng được cây chuối. Vì vậy cây chuối được xem là lợi thế ưu tiên của các nước nhiệt đới.
Việc trồng chuối xuất khẩu thành công nhất là ở nước Ecuador, một nước nhiệt đới ở Nam Mỹ đáng được các nước nhiệt đới khác học tập.
Trong năm 2011 Ecuador là nước sản xuất chuối hàng thứ 5 trên thế giới với 6 % tồng sản lượng chuối thế giới và xuất khẩu đứng hàng thứ nhất với 29% tồng giá trị chuối xuất khẩu trên thế giới.
Nhiều nước nhiệt đới có dện tích trồng chuối lớn như Ấn Độ (chiếm 20% sản lượng chuối thế giới) nhưng không phải là nước xuất khẩu được nhiều chuối do còn giới hạn về khâu kỹ thuật chọn giống, sơ chế và vận chuyển để đáp ứng cho ye6uca61u xuất khẩu.
Ở Việt Nam có nhiều giống chuối ngon nổi tiếng nhưng chưa có cơ hội xuất khẩu với sản lượng lớn do còn vướng phải các rào cản về thương hiệu chuối (do chưa bảo vệ) và chưa có quy trình thâm canh chuối hiện đại (từ khâu chọn giống sạch bệnh cho đến kỹ thuật sản xuất để thu hoạch đồng loạt và kỹ thuật sơ chế, vận chuyển hợp lý).
Nhìn chung cây chuối có thế mạnh xuất khẩu ở các nước nhiệt đới, nếu khai thác tốt thế mạnh này sẽ giúp công ăn việc làm và xóa đói giảm nghèo cho một bộ phận khá lớn dân cư.
+Nguy cơ
Tuy cây chuối trên thế giới có khoảng 1.000 giống khác nhau, nhưng nguồn gen của cây chuối rất đơn điệu. Tất cả các giống chuối hoang dại và chuối trồng tựu trung chỉ thuộc 1 trong ba nguồn gen là:
- Nguồn gen từ loài Chuối rừng Musa acuminata ký hiệu ‘A’ gồm các tổ hợp gen ([AA], [AAA] và [AAAA]).
- Nguồn gen từ loài chuối rừng Musa balbisiana ký hiệu ‘B’ gồm các tổ hợp gen [BB], [BBB] và [BBBB].
- Nguồn gen từ các dòng lai của hai loài trên gồm các tổ hợp gen ([AB], [AAB], [ABB], [AAAB], [AABB] và [ABBB].
Trong đó các loài chuối ăn được chủ yếu có kiểu gen tam bội.
Mặc dù các loài chuối dể bị đột biến và biến dị di truyền nhưng kiểu gen vẩn giới hạn nên hạn chế về mặt đa dạng sinh học và dể bị suy thoái và tiệt chủng bởi các nguồn dịch hại có tính chuyên biệt đối với các loài chuối.
Hiện nay theo thống kê, trên thế giới có khoảng 68 loại bệnh chuối do 99 loài tuyến trùng và vi sinh vật gây ra, trong đó gồm:
- Có 4 loại bệnh do tuyến trùng do 10 loài tuyến trùng gây ra.
- Có 51 loại bệnh do nấm do 72 loài nấm gây ra.
- Có 7 loại bệnh do vi khuẩn do 8 loài vi khuẩn gây ra.
- Có 6 loại bệnh virus do 9 loài virus gây ra.
Trong đó các bệnh do virus là nguy hiểm nhất, ngày nay do giao lưu tiện lợi giữa các vùng trên thế giới nên sự lan tỏa của bệnh chuối ngày càng trầm trọng.
Ngoài ra còn có khoảng 24 loại bệnh do sinh lý, trong đó có 9 loại chưa rõ nguyên nhân.
Giống chuối Gros Michel banana sau này còn được gọi là nhóm chuối Cavendish banana được tìm thấy ở Martinique Jamaica ở vùng vịnh Caribean là giống chuối tiêu có kiểu gen tam bội AAA có hương vị quả ngon được trồng xuất khẩu chủ yếu ở Nam Mỹ và Châu Âu được dự báo là trong 10-20 năm tới không còn tồn tại ở các trang trại quy mô lớn do tính nhiểm Bệnh tiêm Panama do nấm đất Fusarium (Race 1), Bệnh héo vi khuẩn chuối (BBW) do vi khuẩn  Xanthomonas campestris pv. Musacearum và bệnh Chổi rồng trên chuối (BBTV) do rệp hại chuối truyền virus quá nặng.
Để ứng phó với nguy cơ này, Viện Quốc tế về nông nghiệp nhiệt đới được tài trợ bởi Quỹ Rockefeller   CGIAR đã bước đầu thử nghiệm cho biến đổi gen chuối có khả năng kháng bệnh Black Sigatoka và mọt chuối. Bước đầu phát triển giống cây trồng đặc biệt cho sản xuất nhỏ và tự cung tự cấp nông dân. 

Liệu giống chuối biến đổi gen có được người tiêu dùng chấp nhận hay không?
-