KHỔ QUA
Dây khổ qua (mướp đắng)
Quả khổ qua (mướp đắng)
Quả khổ qua chín
Hạt khổ qua
-Tên gọi khác: Ổ qua, mướp đắng, lương qua, cẩm lệ chi, mướp mủ.
-Tên tiếng Anh: bitter melon, bitter gourd, bitter
squash.
-Tên khoa học: Momordica charantia L.,
1753
Phân loại khoa học
Bộ (ordo):
|
Bầu bí (Cucurbitales)
|
Họ (familia):
|
Bầu bí (Cucurbitaceae)
|
Chi (genus):
|
Mướp đắng (Momordica)
|
Loài (species):
|
Momordica charantia
|
Phân bố
Chi Mướp đắng (Momordica) là một Chi của khoảng 60 loài dây leo thân thảo sống một
năm hoặc nhiều năm thuộc Họ Bầu Bí (Cucurbitaceae). Chi này có nguồn gốc bản xứ ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt
đới thuộc Châu Phi, Châu Á và ở Úc.
Loài Khổ qua
hay Mướp đắng (Momordica charantia) có
nguồn gốc từ vùng nhiệt đới Châu Á hoặc Châu Phi nhưng không rõ có nguồn gốc ở nước nào.
Mướp đắng, miền Nam Việt Nam gọi là khổ
qua (Momordica
charantia) là một loài cây leo mọc ở vùng nhiệt đới và cận
nhiệt đới thuộc họ Bầu bí, có quả ăn được, thuộc loại
đắng nhất trong các loại rau quả.
Tên gọi trong tiếng Anh của mướp đắng
là bitter melon hay bitter
gourd được dịch từ tiếng
Trung: “kǔguā” (khổ qua); (“khổ”: đắng; “qua”: mướp;
“khổ qua”: mướp đắng).
Cây khổ
qua hay mướp đắng
được trồng rộng rãi ở Ấn Độ , Pakistan,
Nam Phi, Đông Nam Á, Trung Quốc, Châu Phi và vùng Caribe.
Ở Việt Nam
khổ qua được trồng ở khắp nơi, nhưng nhiều nhất là ở Miền Nam .
Mô tả
Cây khổ qua là loài dây leo thân thảo sống hàng năm, chu kỳ
sống 3-4 tháng.
-Thân: Cây khổ qua có dạng dây leo bằng tua cuốn. Thân có cạnh,
dây có thể bò 4-5 mét.
-Lá: Lá mọc so le, dài
5-10cm, rộng 4-8cm, phiến lá chia làm 5-7 thuỳ, hình trứng, mép khía răng. Mặt
dưới lá mầu nhạt hơn mặt trên, Gân lá có lông ngắn.
-Hoa: Hoa đực và hoa cái mọc riêng ở nách lá, có cuống dài. Cánh
hoa mầu vàng nhạt.
-Quả: Quả hình thoi, dài 8-15cm, mặt ngoài có nhiều u lồi. Quả
chưa chín có mầu vàng xanh, khi chín mầu vàng hồng.
Cây được trồng bằng hạt. Trồng được quanh năm, năng suất quả có thể đạt 20-30
tấn/ha.
Cây khổ qua (mướp đắng) có tác giả cho rằng nguồn gốc ở Châu
Phi, hiện nay được trồng rộng rãi ở khắp các nơi trong vùng nhiệt đới và cận
nhiệt đới. Do có biên độ sinh thái rộng, nên ở vùng nhiệt đới mướp đắng có thể
sinh trưởng quanh năm, rất dễ mẫn cảm với điều kiện úng ngập. Khổ qua có thể
trồng trên nhiều loại đất nhưng sinh trưởng thuận lợi nhất trên đất giầu dinh
dưỡng và thoát nước tốt.
Khi dùng làm dược liệu, khổ qua rừng (một phân loài của khổ
qua, có kích thước lá nhỏ, quả nhỏ và rất đắng, mọc hoang dại trong tự nhiên)
có tác dụng tốt hơn các giống khổ qua trồng.
Thành phần hóa học
-Theo tài liệu của Trường đại học Purdue về các loại rau quả
Châu Á nhập vào Mỹ, khổ qua có nhiều nước, protein, lipid, carbohydrat, vitamin
A, B1, B2, C, khoáng chất như calcium, potassium, magné, sắt, kẽm.
-Theo phân tích của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, thành phần dinh
dưỡng trong 100 gam quả khổ qua tươi (phần vỏ quả) có các chất như sau:
Năng lượng
|
79 kJ (19
kcal)
|
4.32 g
|
|
Đường
|
1.95 g
|
Chất xơ thực phẩm
|
2.0 g
|
0.18 g
|
|
Chất béo no
|
0.014 g
|
Chất béo không no đơn
|
0.033 g
|
Chất béo không no đa
|
0.078 g
|
0.84 g
|
|
93.95 g
|
|
Vitamin A equiv.
|
6 μg (1%)
|
Thiamin (Vit. B1)
|
0.051 mg (4%)
|
Riboflavin (Vit. B2)
|
0.053 mg (4%)
|
Niacin (Vit. B3)
|
0.280 mg (2%)
|
0.041 mg (3%)
|
|
Axit folic (Vit. B9)
|
51 μg (13%)
|
0 μg (0%)
|
|
33.0 mg (55%)
|
|
0.14 mg (1%)
|
|
4.8 μg (5%)
|
|
9 mg (1%)
|
|
0.38 mg (3%)
|
|
16 mg (4%)
|
|
36 mg (5%)
|
|
319 mg (7%)
|
|
6 mg (0%)
|
|
0.77 mg (8%)
|
Công dụng
a-Các bộ phận cây khổ qua được dùng làm rau
+Ở Việt Nam
1-Lá và đọt khổ
qua non dùng làm rau
-Lá và đọt khổ qua non dùng có thể dùng làm rau sống, nhưng
do có vị rất đắng nên ít có người thích ăn. Ở ĐBSCL lá và đọt khổ qua non được
dùng chung với rau tập tàng (gồm nhiều loại rau hoang dại khác nhau) để ăn sống
chấm với nước thịt, cá kho, mắm chua, mắm kho…
-Lá và đọt khổ qua non dùng có thể dùng làm rau luộc, xào. Ở
ĐBSCL lá và đọt khổ qua non được luộc và xào chung với rau tập tàng (gồm nhiều
loại rau hoang dại khác nhau) có thêm hương vị đắng ăn với nước thịt, cá kho,
mắm chua, mắm kho…tăng thêm khẩu vị.
-Lá và đọt khổ qua non dùng làm rau nấu canh, là loại canh
có tác dụng giải nhiệt rất tốt. Canh lá và đọt khổ qua có thể nấu chay, canh
mặn nấu với xương, cá và thịt bầm vò viên ăn rất hấp dẫn. Trước đây có nhiều
loại rau rừng khác như rau đắng đất, rau đắng biển, rau má nên lá và đọt khổ
qua ít được dùng, hiện nay loại canh từ lá và đọt khổ qua thay thế cho các loại
rau đắng khác vừa dể tìm, ngon miệng và có tác dụng dược liệu rất tốt.
2-Quả khổ qua xanh
dùng làm rau xào, nấu canh, hầm
-Quả khổ qua xanh, bỏ ruột, xắt mỏng làm món rau xào riêng
hoặc hổn hợp với nhiều loại ra quả khác, đặc biệt món ổ qua xắt mỏng xào trứng.
-Khổ qua xanh xắt ô vuông để nấu canh với thịt, xương có vị
canh rất ngon.
-Món khổ qua hầm: khổ qua dồn thịt, cá bầm làm nhân, hầm cho
mềm là món không thể thiếu trong các tiệc cổ, ngày giổ, ngày tết ở khắp cả nước
và thường xuyên ở Nam Bộ.
Khổ qua hầm thịt
-Khổ qua chín có vị ít đắng hơn, có thể dùng để nấu canh,
nhưng ít được dùng như khổ qua xanh.
-Khổ qua xanh bào mỏng còn được dùng để nhúng lẫu chua hay
lẫu ngọt.
Các món ăn từ khổ
qua phổ biến ở Việt Nam
là:
-Canh khổ qua với chả cá thát lát viên, thịt bầm vò viên.
-Canh khổ qua với xương ống, thịt vịt, móng bò…
-Khổ qua nhồi thịt hầm
-Khổ qua nhồi cá bầm hầm.
-Khổ qua ăn sống với ruốc bông
-Khổ qua xào với trứng
-Mứt khổ qua
-Trà khổ qua
Khổ qua xào trứng
+Ở
nước ngoài
-Ở Trung Quốc, trong món luộc ngũ quả (gồm 5 loại rau quả)
của người Hoa, thường có sự hiện diện của khổ qua. Khổ qua được nấu canh với thịt lợn, xào
với khoai tây, dịch đắng củ quả khổ qua được dùng để tạo vị đắng cho bia thay
cho hoa “húp lông”.
-Ở Ấn Độ: Miền Bắc Ấn Độ có món khoai tây chiên với khổ qua
xào, được ăn kèm với sữa chua cho bớt vị đắng. Món khổ qua dồn thịt và gia vị
rồi chiên trong dầu.
Ở miền Nam
Ấn Độ có món khổ qua xào trộn với dừa nạo, được coi là một thực phẩm thuốc cho
bệnh nhân tiểu đường.
Các món ăn phổ biến khác bao gồm khổ qua nấu súp với thịt và
hành tây. Món khổ qua xắt mỏng ngâm nước muối, vắt bỏ nước đắng rồi xào, trộn
với dừa nạo cho bớt đắng.
-Ở Pakistan
và Bangladesh ,
khổ qua được nấu súp với hành tây, bột ớt màu đỏ, bột nghệ, muối, bột rau mùi,
và hạt cumin. Một món ăn ở Pakistan
khổ qua dồn thịt bò, nấu chín ăn kèm với bánh nóng (một hỗn hợp đậu lăng và
gạo).
-Ở Nepal ,
khổ qua được dùng tươi, cắt thành từng miếng vuông hay lát và xào với dầu, tỏi,
muối, tiêu. Ăn với món khoai tây chiên và cà ri.
-Ở Indonesia ,
khổ qua được chiên, xào, nấu chín chín trong nước dừa, hoặc hấp.
b-Các bộ phận cây khổ qua được dùng làm thuốc
Trong Y học dân gian và Y học cổ truyền ở các nước Châu Á và
Châu Phi thì các bộ phận của cây khổ qua từ lá, dây, quả và cả hạt khổ qua đều
có nhiều công dụng dược nhau dùng để chữa nhiều bệnh khác nhau.
Khổ qua đã được sử dụng trong các hệ thống y tế ở Châu Á và
Châu Phi với dạng các thảo dược khác nhau trong một thời gian dài.
Ngày nay Tây y cũng đã có nhiều nghiên cứu tính dược từ cây khổ
qua để xác định tính dượng và dùng trong bào chế thuốc chữa bệnh.
a-Theo Đông y
+Ở Việt Nam
Khổ qua (mướp đắng) có vị đắng, tính mát, không độc, có công
dụng chính là thanh nhiệt, giải độc, giúp sáng mắt, nhuận trường, tiêu đờm. Dùng
trong các trường hợp trúng nắng, sốt nóng mất nước, hội chứng lỵ, viêm nhiễm
đường sinh dục, tiết niệu, mụn nhọt, viêm kết mạc cấp và mãn tính.
Ngoài ra, khổ qua còn có tác dụng thường xuyên giúp tinh
thần thư thái, an thần, giảm stress, giúp da dẻ mịn màng, ngăn ngừa và chữa các
căn bệnh về da. Đặc biệt công năng kiện tì, thúc đẩy chuyển hóa của chất trong
khổ qua giúp cơ thể ức chế sự chuyển hóa và hấp thu đường trong cơ thể, ngăn
ngừa căn bệnh đái tháo đường và ổn định đường huyết ở người tiểu đường.
Quả khổ qua chín còn có tác dụng bổ thận, bổ huyết, kiện tỳ.
Dây và lá khổ qua tươi đem nấu (hoặc giã lấy nước) để uống có công dụng hạ sốt,
hoặc giã lá và dây để đắp trị mụn nhọt; dân gian một số nơi còn dùng khổ qua
rừng (loại mọc hoang dại, trái nhỏ bằng ngón chân cái) dùng cả trái, dây và lá
để chữa trị các chứng thuộc về gan - bằng cách chặt khúc ngắn 3-4 cm, đem phơi
khô để nấu nước uống hằng ngày; dây khổ qua còn dùng trị các chứng lỵ, đặc biệt
là lỵ amíp; hạt khổ qua (hạt của trái già) dùng trị ho và viêm họng - bằng cách
nhai hạt và nuốt nước từ từ rồi bỏ xác; người ta còn dùng hoa khổ qua phơi khô,
tán thành bột để dành uống trị đau bao tử; dân gian thường dùng hạt khổ qua
chữa trị mỗi khi bị côn trùng cắn - dùng khoảng 10 gr hạt nhai, nuốt nước, còn xác hạt
thì đắp lên vết cắn; những người hay bị mụt nhọt có thể dùng lá khổ qua khô đốt
cháy, tán thành bột mịn để đắp lên mụt nhọt...
Hiện nay, khổ qua là loại dược liệu được nhiều người biết
đến với công dụng hạ đường huyết - những người bệnh tiểu đường có thể dùng trái
khổ qua tươi để cả hạt đem thái mỏng, phơi khô (dùng trái già càng tốt, nhưng
không dùng trái chín). Mỗi ngày dùng khoảng 50 gr khổ qua khô này. (Theo lương y Trần Duy Linh -TP.HCM).
+Ở nước ngoài
-Ở Thổ Nhĩ Kỳ, quả khổ qua đã được sử dụng như một phương
thuốc dân gian để trị nhiều loại bệnh như bệnh đau dày, đọt và lá non đâm
nhuyễn ngâm trong dầu ô liu hoặc mật ong để trị bỏng.
-Ở các nước Nam Á khổ qua đã được sử dụng trong y học cổ
truyền để trị các bệnh như lỵ, đau bụng, sốt, sốt rét, bỏng, ghẻ và các vấn đề
về da khác.
b-Theo Tây y
Trong vài thập kỷ trở lại đây Tây y đã tập trung nghiên cứu
tính dược từ cây khổ qua nhằm kiểm tra lại tính hiệu quả của các bài thuốc dân
gian được dùng phổ biến ở Châu Á và Châu Phi cũng như tìm cơ sở khoa học cho
các thức ăn thực dưỡng và điều chế tân dược.
+Các kết quả
nghiên cứu
-Các hoạt chất
(Active substances)
Trong các bộ phận của cây khổ qua có chứa một số hợp chất có
hoạt tính sinh học, chủ yếu là momordicin I (C30H48O4), momordicin II và cucurbitacin B.
Trong cây khổ qua cũng có chứa một số glycosides có hoạt
tính sinh học (bao gồm cả momordin,
charantin, charantosides, goyaglycosides, momordicosides)
và các
hợp chất terpenoid khác (bao gồm cả momordicin-28, momordicinin, momordicilin,
momordenol
và momordol).
Đồng thời trong cây khổ cũng chứa protein gây độc tế bào (cytotoxic proteins) có tác dụng bất hoạt ribosome (ribosome-inactivating) như
momorcharin và momordin.
-Chống ung thư (Anticancer)
Hai hợp chất chiết xuất từ khổ qua, α-eleostearic acid (từ hạt) và 15,16-dihydroxy-α-eleostearic acid (từ quả) đã được tìm thấy tác dụng
ngăn chặn tế sự phát triển của tế bào ung bạch cầu (apoptosis of leukemia cells) trong ống nghiệm.
Chế độ ăn có chứa chất dầu từ quả khổ qua 0,01% (cũng như
0,006% chất α-eleostearic acid từ hạt)
đã được chứng minh ngăn chặn được tác hại của chất sinh ung thư đại tràng do chất azoxymethane và chất carcinogenesis trong thí nghiệm ở chuột.
Các nhà nghiên cứu tại Đại học Saint Louis khẳng định một chất
chiết xuất từ quả khổ qua, thường được ăn và được biết đến như “karela” ở Ấn Độ,
gây ra một chuỗi các phản ứng, giúp tiêu diệt các tế bào ung thư vú và ngăn
ngừa không cho chúng nhân ra.
-Tác dụng tẩy giun
(Antihelmintic)
Khổ qua được sử dụng như một loại thuốc dân gian ở Togo (Tây
Phi) để điều trị các bệnh đường tiêu hóa, và các chiết xuất đã cho thấy hoạt
động trong ống nghiệm chống được loài giun tròn Caenorhabditis elegans.
-Chống sốt rét (Antimalarial)
Khổ qua thông dụng ở Châu Á được coi là hữu ích trong việc
phòng ngừa và điều trị bệnh sốt rét (malaria). Trà từ lá khổ qua cũng được dùng để trị sốt rét ở Panama và Colombia. Ở Guyana, khổ
qua luộc và xào với tỏi và hành, món ăn phổ
biến này được gọi là “corilla” được ăn để ngăn chặn bệnh sốt rét.
Nghiên cứu phòng thí nghiệm đã xác nhận rằng các loài liên
quan đến khổ qua có tác động chống sốt rét, mặc dù các nghiên cứu này vẫn chưa
được xuất bản chính thức.
-Kháng virus (Antiviral)
Ở Togo
cây khổ qua được sử dụng chống lại các bệnh do virus như thủy đậu (chickenpox) và sởi (measles). Các thử nghiệm in vitro với chiết xuất lá đã thể hiện hoạt
tính chống lại virus herpes
simplex type 1, rõ ràng là do các hợp chất momordicins.
Xét nghiệm cho thấy các hợp chất trong khổ qua có thể có
hiệu quả để điều trị nhiễm virus HIV. Nhưng còn nhiều rào cản để đưa chất này
vào cơ thể.
Như hầu hết các hợp chất cô lập từ khổ qua tác động đến HIV
đều ở dạng protein hoặc lectin, các chất này không thể được hấp thụ nguyên vẹn ở
đường ruột, do đó dù có ăn, uống các sản phẩm từ cây khổ qua nhưng chúng không
có tác dụng ngăn chặn tiến triển của virus HIV.
Tuy nhiên người nhiểm HIV ăn nhiều khổ qua sẽ bù đắp được
những tác động tiêu cực của thuốc điều trị HIV.
-Bảo vệ tim mạch (Cardioprotective)
Các nghiên cứu ở chuột cho thấy hạt khổ qua có tác dụng bảo
vệ tim mạch bằng cách điều chỉnh hạ xuống con đường viêm NF-κB (NF-κB inflammatory
pathway).
-Bệnh tiểu đường (Diabetes)
Năm 1962, Lolitkar và Rao chiết xuất từ cây khổ qua một
chất, mà họ gọi là charantin có tác dụng hạ đường huyết (hypoglycaemic) trên thỏ
bình thường và thỏ bệnh tiểu đường.
Vào năm 1981, Visarata và Ungsurungsie thiết lập được một
nguyên tắc hoạt động trên thỏ bị tiểu đường, cho thấy dịch chiết từ quả khổ qua
làm tăng độ nhạy cảm của cơ chế sản sinh chất insulin.
Trong năm 2007, một nghiên cứu của Bộ Y tế Philippines xác
định một liều hàng ngày dùng 100 mg chất charantin trong quả khổ qua cho
mỗi kg trọng lượng cơ thể tương đương với 2,5 mg / kg thuốc giảm tiểu đường glibenclamide
uống hai lần mỗi ngày.
Các loại thuốc viên nén chiết xuất từ khổ qua được bán ở Philippines như
là một thực phẩm bổ sung và xuất khẩu sang nhiều nước.
Các hợp chất khác trong khổ qua đã được tìm thấy để kích
hoạt AMPK, loại protein điều hòa sự hấp thu glucose (một quá trình mà
bị suy giảm ở bệnh nhân tiểu đường).
Khổ qua cũng chứa một chất lectin có hoạt động giống như insulin do cấu trúc phi protein của
nó gắn kết thụ thể insulin. Lectin này làm giảm nồng độ đường trong máu bằng
cách tác động lên các mô ngoại vi, tương tự như tác dụng của insulin trong não,
ức chế sự thèm ăn. Lectin này có thể là một đóng góp lớn cho tác dụng hạ đường
huyết phát triển sau khi ăn nhiều khổ qua. Khi khổ qua sống rất đắng, nó phải
được nấu chín để làm cho nó ngon miệng.
Theo nghiên cứu của các chuyên gia nội tiết và các nhà khoa
học ở Viện Nghiên cứu Y khoa Garvan (Úc) và Viện Y Dược Thượng Hải (Trung Quốc)
cho thấy các chất charantin, polypeptid-P và vicine trong khổ qua có tác dụng
tương đương insulin và có vai trò giảm đường huyết, cải thiện và ức chế dung
nạp đường của tế bào, từ đó ổn định đường huyết và ngăn chặn sự phát triển,
biến chứng của tiểu đường. Nghiên cứu đã được các nhà khoa học áp dụng thành
công trên chuột thực nghiệm và thu được kết quả cao trong nhóm người tiểu đường
tuýp 2.
Ăn nhiều khổ qua là một bài thuốc đơn giản giúp bệnh nhân
tiểu đường.
-Giảm Cân (Weight Loss)
Món ăn Trung Quốc bằng sự kết hợp giữa khoai từ-khổ qua có
tác động tạo kết quả giảm cân rõ rệt cho người béo phì.
Trong khoảng thời gian 23 tuần, những người ăn chế độ ăn
uống có khổ qua đã giảm cân trung bình 7 kg.
-Các ứng dụng khác
(Other uses)
Khổ qua đã
được sử dụng trong y học cổ truyền cho các bệnh khác, bao gồm cả bệnh lỵ (dysentery), đau bụng (colic), sốt (fevers), bỏng (burns),
đau kinh nguyệt (painful menstruation) , ghẻ (scabies) và các vấn đề về da khác. Nó cũng đã được sử dụng như một
chất ngừa thai (abortificant), để tránh thai (birth control), và để
giúp sinh con (childbirth).
-Lưu ý (Cautions)
Các hạt khổ qua có chứa chất vicine, một loại alkaloid glycoside, vì vậy có thể gây ra các triệu
chứng của bệnh thiếu máu huyết tán (favism) ở những người nhạy
cảm. Ngoài ra, các lớp vỏ hạt (arils) màu đỏ của hạt khổ qua được báo cáo là độc hại
cho trẻ em, và khổ qua được chống chỉ định trong thời kỳ mang thai (pregnancy).
+Tác
dụng thực dưỡng theo Tây y
-Phòng chống ung thư: Thành phần protein và nhiều lượng vitamin C trong quả khổ qua giúp nâng cao chức năng miễn dịch của cơ thể, làm cho tế
bào miễn dịch có tác dụng tiêu diệt tế bào ung thư; Nước cốt mướp đắng chứa
thành phần protein tựa như hoạt chất Alkaloid, giúp tăng cường chức năng nuốt
của các thực bào.
-Giảm thấp đường huyết: Nước cốt quả khổ qua
tươi tươi, có tác
dụng hạ đường huyết tốt, là món ăn lý tưởng cho người bệnh tiểu đường.
Thuốc từ khổ qua
Các món ăn, bài thuốc từ cây khổ qua ở Việt Nam
1-Món khổ qua xào đậu phụ: Khổ qua 150g, đậu phụ 100g. Khổ qua rửa sạch, bỏ ruột thái lát, dùng dầu
xào to lửa cho chín tái, cho đậu phụ thái lát và ít muối gia vị, tiếp tục xào
to lửa cho chín đều. Cho ăn ngày 1 lần. Dùng thường ngày cho bệnh nhân tiểu
đường. (theo lương y Trần Duy Linh-TP HCM).
2-Món khổ qua trộn rau cần: Khổ qua 150g; rau cần 150g, tương mè;
tỏi nhuyễn mỗi thứ với lượng vừa. Trước tiên gọt bỏ vỏ, ruột, cắt khổ qua thành sợi nhỏ, trần qua nước sôi, rồi
lại dùng nước lạnh dội qua, để ráo nước, sau đó trộn khổ qua với rau cần, nêm thêm các gia vị. Món ăn có tác dụng mát gan
giảm huyết áp, thích hợp dùng cho người bệnh cao huyết áp. (theo Y học cổ truyền Việt nam).
3-Món khổ qua xào
trứng vịt: Dùng quả khổ qua bỏ hạt, bào
mỏng rồi cho vào chảo xào, khi gần chín thì đập trứng cho vào, đảo sơ qua, nêm
nếm gia vị. Những người thích ăn khổ qua, nhưng không thích vị đắng, thì nên
dùng món này, vì khi khổ qua xào chung với trứng vịt, thì sẽ giảm đến 80% vị
đắng của khổ qua. Dùng món này vừa có tính chất mát, vừa bổ dưỡng. (theo lương
y Trần Duy Linh-TP HCM).
4-Món khổ qua xào bột tề: Khổ qua 60g, bột củ năn 60g. Khổ qua bỏ ruột thái lát, bột tề (củ năn) bóc
vỏ thái lát. Cho dầu vừng hoặc dầu thực vật xào to lửa, thêm gia vị. Cho ăn
ngày 1 - 2 lần. Dùng cho các trường hợp viêm loét niêm mạc môi miệng, viêm lưỡi
và họng hầu, ăn và nhai nuốt đều đau, sốt nóng. (theo lương y Trần Duy Linh-TP HCM).
5-Món khổ qua xào thịt nạc: Cách làm tương tự như món
khổ qua xào đậu phụ, thay đậu phụ bằng thịt lợn nạc. Dùng cho các trường hợp chảy máu cam,
tiểu đường, đau mắt đỏ... (theo lương y Trần
Duy Linh-TP HCM).
6-Món khổ qua xào cà rốt: Khổ qua 60g, cà rốt 60g, thêm hành tiêu gia vị xào với lửa to. Ăn ngày 2
lần. Dùng cho các trường hợp tiêu chảy, đặc biệt là ở trẻ nhỏ với liều bằng nửa
của người lớn. (theo lương y Trần Duy Linh-TP
HCM).
7-Món khổ qua với
cá, thịt chà bông: Dùng quả khổ qua bỏ hạt,
thái mỏng, ướp đá lạnh khoảng 15 phút, rồi dùng chung với cá hay thịt chà bông.
Món này có tác dụng nhuận trường, đặc biệt còn có tác dụng giải độc rượu. (theo lương y Trần Duy Linh-TP HCM).
8-Món canh rau tập
tàng nấu với đọt và lá khổ qua non: Dùng
đọt và lá khổ qua non nấu canh với rau tập tàng (hổn hợp nhiều loại rau rừng),
ăn có tác dụng giải cảm, nhuận tràng. (theo kinh nghiệm dân gian Nam Bộ).
9-Món thịt nạc hầm khổ qua, củ cải:
Khổ qua 250g - 500g, thịt lợn nạc 125g - 250g, củ cải 100g - 200g. Khổ qua rửa
sạch thái lát, thịt lợn nạc thái miếng, củ cải thái miếng; hầm với nước; khi đã
chín thêm gia vị. Cho ăn ngày 1 lần, liên tục 20 ngày. Dùng cho các bệnh nhân
viêm họng mạn tính, đau rát họng, ho khan, viêm nề hoặc viêm teo niêm mạc họng. (theo lương y Trần Duy Linh-TP HCM).
10-Món khổ qua
hầm: Món dân gian thường dùng nhất là khổ
qua dồn thịt hầm, món này vừa có tác dụng thanh nhiệt, chỉ khát (khô cổ, khát
nước), vừa có tính chất bồi bổ cơ thể. Nguyên liệu thường dùng để cho vào bên
trong trái khổ qua trước khi đem hầm là miến Tàu, thịt heo xay, nấm mèo, hành,
tiêu trộn chung, ướp gia vị. Có thể thay thịt bầm bằng cá xay để vào nhân khổ
qua hầm (theo lương y Trần Duy Linh-TP HCM).
11-Món nấu nấm
hương, đậu ván trắng và khổ qua: dành cho
bệnh nhân bị tiểu đường.
Nguyên liệu gồm 150 g nấm hương, 200 g đậu ván trắng, 100 g
khổ qua. Trước tiên, cho đậu ván trắng vào nấu, khi chín thì cho nấm và khổ qua
vào nấu tiếp, nêm gia vị vừa ăn. Đây là bài thuốc có tác dụng thanh nhiệt, giải
độc, hạ đường huyết. Thích dụng cho những người tiểu đường, ăn uống không ngon
miệng, gầy sút, ăn uống khó hấp thu, thường xuyên đi tiêu phân sống.
Bài thuốc này có thể ăn thường xuyên hằng ngày với cơm hoặc
có thể nấu cháo ăn hàng ngày thay cơm đối với bệnh nhân tiểu đường. (theo Lương y Chu Văn Tiến).
11-Nước khổ qua tươi đun sôi: Khổ qua tươi 500g để cả ruột. Trước tiên rửa sạch khổ qua, cắt lát, cho vào nồi, thêm 250ml nước, nấu khoảng 10 phút. Nước nấu khổ qua có công hiệu thanh nhiệt sáng mắt, thích hợp dùng cho người bệnh can hỏa
(gan nóng) bốc lên, mắt đỏ sưng đau. (theo Y
học cổ truyền Việt nam).
12-Nước sắc khổ qua: Khổ qua 1 - 2 quả, tách bỏ ruột, thái lát, sắc lấy nước cho uống. Dùng cho
các trường hợp tiểu đường, sốt cao mất nước, miệng khô, họng khát. (theo lương y Trần Duy Linh-TP HCM).
13-Nước chiết khổ qua ướp đường: Khổ qua tươi 1 - 2 quả. Khổ qua rửa sạch, nghiền nát nhuyễn,
cho thêm 100g đường trắng trộn khuấy đều để sau 2 giờ đem khuấy nước sôi nguội
và lọc lấy nước cho uống 1 lần. Dùng cho chứng nhiệt lỵ. (theo lương y Trần Duy Linh-TP HCM).
14-Trà khổ qua: Khổ qua 1 quả, trà xanh với lượng vừa. Khổ qua cắt bỏ một phần trên, móc bỏ
ruột, nhét trà xanh vào, treo quả khổ qua ở nơi thoáng gió; một thời gian
sau, lấy xuống, rửa sạch, cùng trà cắt nhuyễn, trộn đều, mỗi lần lấy 10g cho
vào một tách, hãm với nước sôi. Món trà này có tác dụng thanh nhiệt giải thử
(làm mát chống say nắng); miệng khát phiền nhiệt.
Cách chế biến khác: Dùng thân, lá và quả dây khổ qua rừng,
xắt nhỏ, phơi khô, sao vừa vàng để bảo quản lâu. Khi uống pha với nước sôi
chung với trà xanh.
Trà khổ qua giúp giải nhiệt, tâm thần bất định, hồi hộp,
kích thích tiêu hóa ăn ngon miệng. hơn. (Theo BS. LÊ THÚY TƯƠI).
15-Món mứt khổ
qua: Dân gian còn dùng món mứt làm từ trái
khổ qua để giúp an thần, dễ ngủ - dùng loại khổ qua thật đắng (trái nhỏ, xanh
đậm), bỏ ruột, dùng kim châm thật nhiều vào trái, và đem ngâm trong nước độ 30
phút, lấy ra cắt dày 2-3 phân, để ráo nước. Cho đường cát vào nồi bắc lên bếp
đến khi đường tan, thì cho khổ qua vào để sên đường khoảng 1 giờ. (theo lương y Trần Duy Linh-TP HCM).
Lưu ý!
Những người tỳ vị hư hàn, thường bị tiêu chảy, hay cơ thể
không có thực nhiệt (không nóng trong người), thì không nên dùng thường xuyên
khổ qua, vì dễ làm lạnh bụng, dễ bị tiêu chảy... (theo lương y Trần Duy Linh-TP
HCM).
Các bài thuốc chửa bệnh từ cây khổ qua
1-Giảm viêm tấy: Khổ qua tăng khả năng tránh nhiễm khuẩn, giảm viêm sưng nhẹ
và phần bã đắp lên vết thương sẽ rất công hiệu. (Theo BS. LÊ THÚY TƯƠI).
2-Chữa sốt, say
nắng: Nấu khổ qua bỏ ruột cùng lá khổ qua
để lấy nước uống giúp chữa say nắng. (Theo BS. LÊ THÚY TƯƠI).
3-Kích thích ăn uống, tiêu viêm, thoái nhiệt: Khổ qua giúp kiện tỳ khai vị (kích thích chức năng tiêu hóa); Alkaloid trong quả khổ qua có công hiệu lợi niệu hoạt huyết (lợi tiểu, máu lưu
thông); tiêu viêm thoái nhiệt (chống viêm, hạ sốt); thanh tâm minh mục (mát tim
sáng mắt).
4-Chữa sạm da: Sạm da là nỗi ám ảnh của nhiều phụ nữ, nhất là những người
mới sinh hoặc ra nắng nhiều. Một số loại mặt nạ thảo dược làm từ cà chua, khổ
qua, trứng gà, dưa chuột... có thể hạn chế tình trạng này.
Cà chua, khổ qua trứng gà mỗi thứ một trái. Cà chua rửa
sạch, bỏ hạt, thái nhỏ, nghiền nát. Khổ qua rửa sạch, bỏ hạt, giã nát. Tất cả
hòa chung với lòng đỏ, lòng trắng trứng gà, trộn đều, đánh nhuyễn. Tối trước
khi đi ngủ, rửa mặt sạch, lau mặt khô rồi lau nhẹ lại bằng nước hoa hồng. Sau
đó bôi hỗn hợp trên lên mặt, khi khô thì bôi tiếp làm thành mặt nạ. Sau một giờ
thì lột bỏ, rửa mặt sạch sẽ, đi ngủ. Tác dụng: chống sạm và thô da. (Theo BS. LÊ THÚY TƯƠI).
5-Nước tắm cho trẻ em nhiều rôm sảy: Khổ
qua 2-3 quả. Rửa
sạch, bổ làm đôi, nấu với nước, lấy nước tắm cho trẻ. Ngày làm 1 lần. (theo bài thuốc dân gian Việt Nam ).
6-Chữa ho: Khổ qua 1-2 quả. Rửa sạch, bổ làm đôi, nấu với nước, lấy nước uống trong ngày.(theo bài thuốc dân gian Việt Nam ).
7-Chữa thấp khớp: Lá mướp đắng 8g, dây đau xương sao 8g, cây xấu hổ 8g, rễ nhàu 8g, cỏ xước
8g, cây vòi voi sao 8g, cối xay 8g, rễ ngũ trảo 5g, dây thần thông 5g, quế chi
4g, gừng tươi 3g. Sắc uống ngày 1 thang. (theo Lương y Chu Văn Tiến).
Tài liệu cần đọc thêm
Medicinal
uses
Momordica balsamina (balsam apple)
Kỹ sư Hồ Đình Hải
Các tài
liệu tham khảo chính
Xem video: Thuốc từ cây khổ qua (mướp đắng)
Xem video: Hướng dẫn nấu món khổ qua hầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét