CÂY SEN
Kỹ sư Hồ Đình Hải
Cập nhật ngày 23/7/2013
-Tên gọi khác: sen
hồng , sen
đỏ, sen Ấn Độ; hà hoa, liên hoa, hạm đạm, phù cừ, thủy chi.
-Tên tiếng Anh: Sacred Lotus.
-Tên khoa học: Nelumbo
nucifera Gaertn
-Tên đồng nghĩa: Nelumbium speciosum (Willd.), Nymphaea nelumbo.
Phân loại khoa học
Giới (regnum):
|
Thực vật
(Plantae).
|
Bộ (ordo):
|
Proteales
|
Họ (familia):
|
Sen
(Nelumbonaceae).
|
Chi (genus):
|
Nelumbo
|
Loài (species):
Tên đầy đủ:
|
N.
nucifera
Nelumbo nucifera Gaertn
|
Phân bố
Đây là một loại cây thủy sinh sống lâu
năm.Trong thời kỳ cổ đại nó đã từng là loại cây mọc phổ biến dọc theo bờ sông Nin ở Ai
Cập cùng với một loài hoa súng có
quan hệ họ hàng gần gũi có tên gọi là “hoa sen xanh linh thiêng sông Nin” (Nymphaea caerulea);
Người Ai Cập cổ đại sùng kính hoa sen
và sử dụng nó trong các nghi thức tế lễ. Từ Ai Cập nó đã được đem đến Assyria
và sau đó được trồng rộng rãi khắp các vùng Ba
Tư, Ấn Độ và Trung
Quốc.
Cây sen cũng có thể là loài cây bản địa ở khu vực Đông
Dương, nhưng ở đây có sự nghi vấn về điều này. Năm 1787, lần đầu tiên nó được
đưa tới Tây Âu như một loài hoa súng dưới sự bảo trợ của Joseph Banks và có thể
thấy được trong các vườn thực vật hiện nay mà ở đó có sự cung cấp nhiệt. Ngày
nay nó là hiếm hoặc đã tuyệt chủng tại Châu Phi nhưng lại phát triển mạnh ở
miền nam Châu Á và Australia. Nó là quốc hoa của Ấn
Độ.
Ở Việt Nam
cây sen được trồng trong ao hồ khắp cả nước. Ở Nam Bộ cây sen địa phương còn
mọc hoang ở nhiều nơi thuộc vùng ĐTM và Tứ giác Long Xuyên (nên phân biệt với
các giống sen trồng nhập nội gần đây từ Trung Quốc và Đài Loan).
Mô tả
Sen là loài thực vật thủy sinh, rể,
thân, cuốn lá đều nằm dưới mặt nước, chỉ có phiến lá nằm ngay mặt nước và cuốn
hoa vươn khỏi mặt nước.
-Thân: Thân sen là
thân ngầm dạng củ mọc trong bùn, còn được gọi là củ sen. Củ có hình thuôn dài,
thịt củ màu trắng, ăn được, có nhiều ngăn trống xếp theo vòng đồng tâm với trục
củ.
-Rể: Rể mọc từ củ
sen hoặc từ đốt rể, có nhiều nhánh mọc lan tỏa trong bùn.
-Lá: Gồm có cuốn lá
hình trụ mọc từ thân ngầm, có nhiều gai, nằm trong nước. Phiến lá to hình tròn
đường kính 30-60 cm, góc lõm, mọc vươn khỏi mặt nước.
-Hoa: Hoa thường mọc trên các thân to
và nhô cao vài mươi cm phía trên mặt nước. Có nhiều
giống sen được trồng, với màu hoa dao động từ màu trắng như tuyết tới màu vàng
hay hồng nhạt.
-Quả: Là gương sen
xốp, có 10-20 hạt đính trong thịt quả, quả nhô khỏi mặt nước.
-Hạt: Hình thuôn
ngắn, kích thước 10x 15 cm.
Thân rễ của sen hồng mọc trong các lớp
bùn trong ao hay sông, hồ còn các lá thì nổi ngay trên mặt nước. Các thân già
có nhiều gai nhỏ. Hoa thường mọc trên các thân to và nhô cao vài cm phía trên
mặt nước.
Thông thường sen có thể cao tới 1,5 m
và có thể phát triển các thân rễ bò theo chiều ngang tới 3 m, một vài nguồn
chưa kiểm chứng được cho biết nó có thể cao tới trên 5 m. Lá to với đường kính
tới 60 cm, trong khi các bông hoa to nhất có thể có đường kính tới 20 cm.
Có nhiều giống sen được trồng, với màu hoa
dao động từ màu trắng như tuyết tới màu vàng hay hồng nhạt. Nó có thể chịu được
rét tới khu vực 5 theo phân loại của USDA.
Loài cây này có thể trồng bằng hạt hay thân rễ.
Giá trị dinh dưỡng và dược
liệu
-Hạt sen: có hàm lượng
tinh bột và đường rất cao, các chất béo, đạm, canxi, phốt pho, sắt. Theo Đông
y, hạt sen có tác dụng bổ tâm, an thần, trị bệnh mất ngủ, suy nhược thần kinh,
tỳ vị hư hàn, kiết lỵ lâu ngày.
-Tâm sen: vị
đắng, tính hàn, không độc. Tác dụng: an thần chữa mất ngủ, khát nước sau khi đẻ
do hư nhiệt. Hàng ngày dùng 6 -12g. Tâm sen rang vàng sắc với 2 bát nước còn 1
bát, uống thay nước chè, dùng trong mùa hè để giải nhiệt trừ cảm nắng.
-Gương sen (hạt để riêng): vị đắng, chát, mùi thơm, tính ấm.
Gương sen xé nhỏ, sấy giòn, tán bột ăn có tác dụng tiêu ứ, tiêu khát, cầm máu,
trị băng huyết, đái ra máu, chữa bệnh đái đường rất công hiệu. Gương sen để
càng lâu càng có tác dụng chữa bệnh tốt.
-Ngó sen: trong
ngó sen có tinh bột, đường glucoza, vitamin C. Dùng tươi hoặc thái mỏng phơi
khô để dùng dần.
-Lá sen: có
chất ancaloid làm dịu đau, an thần, chống co giật, giải nhiệt, trừ cảm nắng,
làm thuốc cầm máu, chữa thổ huyết, băng huyết, mất ngủ.
-Cuống sen: Mang
lá phát triển, không ăn được nhưng có tác dụng làm thuốc trị tiêu chảy, kiết
lỵ.
-Củ sen: Vừ là thực phẩm bổ dưỡng, vừa là vị thuốc quý.
Ghi chú: Các giá trị dinh dưỡng và dược liệu trên đây chỉ có trong
giống sen địa phương, các giống sen nhập nội theo mục đích kinh tế như sen
chuyên lấy ngó, lấy củ, lấy hạt…không có giá trị như các giống sen địa phương.
Công dụng
a-Lá
sen, ngó sen và củ sen được dùng như rau
1-Lá sen non: Dùng như rau sống ăn kèm với cá lóc, cá rô nướng ở vùng
ĐBSCL.
2-Ngó sen được
dùng như rau sống: Ngó sen được lột vỏ, chẻ
nhỏ để ăn sống và bóp gỏi.
3-Ngó sen được
dùng để nấu canh chua, nấu lẩu: Ngó sen
được lột vỏ, sắt khúc dùng để nấu canh chua và các loại lẩu đặc sản với mực,
tôm, cá, thịt.
4-Ngó sen được
dùng để muối dưa: Ngó sen cắt khúc dùng để
muối dưa riêng lẻ hoặc chung với cọng bông súng, bông điên điển…
b-Hạt
sen được dùng như thực phẩm
1-Hạt sen lúc chưa
già: được dùng làm món ăn chơi với vị ngọt,
bùi…
2-Hạt sen già: Dùng để nấu nhiều thực phẩm cao cấp, bánh mứt và được liệu.
c-Củ
sen được dùng như thực phẩm
1-Củ sen được dùng
như rau sống: Củ sen gọt vỏ có thể được
dùng để ăn trực tiếp như rau sống hặc xắt nhuyễn để bóp gỏi.
2-Củ sen được dùng
trong các món nấu: Củ sen được dùng trong
các món nấu cao cấp như thịt dê, lẩu thập cẩm.
3-Củ sen được dùng
làm dưa: Củ sen được dùng để muối chua và
ăn như dưa chua.
4-Củ sen muối: Là
dạng thực phẩm xuất khẩu được tiêu thụ mạnh ở Nhật Bản, Hàn Quốc..
d-Hoa
sen và lá sen dùng để ướp trà và làm trà
Hoa sen có hương thơm được dùng để ướp trà để có hương sen.
Lá sen được xắt nhuyễn và xấy khô, ướp với hoa sen để làm trà sen uống thay
trà.
e-Các
bộ phận của cây sen đều là dược liệu quý
Trong thiên nhiên, có lẽ ít có loài thực
vật nào như cây sen mà toàn bộ các bộ phận của cây đều được sử dụng làm thuốc
chữa bệnh theo y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian. Hải Thượng Lãn Ông đã viết
về cây sen như sau: “Cây mọc từ dưới bùn đen mà không ô nhiễm mùi bùn, đượm khí
thơm trong lành của trời đất, nên củ, lá, hoa, tua, vỏ quả, ruột đều là thuốc
hay”.
a-Hạt sen (còn gọi là Liên
nhục, Liên tử) hay quả sen thu hoạch khi quả đã chín già với thể chất mập,
chắc. Nếu để nguyên vỏ ngoài thì được liên thạch, bóc bỏ vỏ là liên nhục.
Dược liệu có vị ngọt, tính bình, có tác
dụng bổ tỳ, dưỡng tâm, cố tinh, ích thận, chữa cơ thể suy nhược, kém ăn, mất ngủ, kiết lỵ,
di mộng tinh, khí hư. Hạt sen là một vị thuốc quý vừa có tác dụng bổ
dưỡng lại an thần, được dùng trong nhiều đơn thuốc.
Ðặc biệt hạt sen còn dùng chữa trị các chứng tiêu chảy kéo
dài, suy dinh dưỡng. Hạt sen cũng là một loại thực phẩm quý, thường dùng nấu
chè, làm mứt, chế biến thành nhiều món ăn ngon.Hạt sen và gạo nếp nấu thành cháo ăn, trị
quen đẻ rơi, phụ nữ có thai đau lưng hông..Hạt sen (bỏ tim) 60 gam, cam thảo 10 gam,
cùng chưng nóng bỏ đường cát vào vừa lượng mà ăn, trị nhiễm trùng hệ tiết niệu,
đi tiểu nhiều lần, tiểu gấp, hư nhược khô nóng.
Ngày dùng 12-20g, có thể đến 100g, dưới
dạng thuốc sắc hoặc hoàn tán.
b-Tâm sen (còn gọi là Liên
tâm): Vị đắng tính hàn, có tác dụng thanh tâm khí nhiệt hạ áp. Dùng an thần,
trị sốt cao mê sảng, hồi hộp tim đập nhanh, huyết áp cao. Thường dùng phối hợp
với một số vị thuốc khác như cúc hoa, hoa hòe, hạt muồng... pha trà uống để dễ
ngủ, hạ áp. Liên tử tâm 30 cái,
đun nóng, thêm muối, ăn trước khi ngủ, trị mất ngủ, nóng trong lòng, nhiều
mộng. Liên tử tâm (1,5 gam), dùng nước sôi ngâm như trà uống, trị cao huyết áp
c-Tua sen (Liên
tu): Lá nhị của hoa sen, thu hoạch khi hoa đã
nở, bỏ hạt gạo ở đầu rồi phơi hoặc sấy khô. Tua sen có tên thuốc là liên tu, có
vị chát, mùi thơm, tính ấm, có tác dụng ích thận, cố tinh, thanh tâm, chỉ
huyết, chữa di mộng tinh, băng huyết, thổ huyết, mất ngủ, đái són, bạch đới. dụng
thanh tâm cố thận, sáp tinh chỉ huyết. Dùng riêng hoặc phối hợp với hạt sen.Ngày dùng 5-10g, sắc uống.
d-Gương sen (Liên phòng): Vị đắng sáp, tính ôn, có tác dụng tiêu ứ chỉ
huyết, dùng trị các chứng băng lậu ra máu, tiểu ra máu... Thường dùng để cầm
máu bằng cách đốt thành than rồi phối hợp với các vị thuốc khác. Liều dùng
5-10g.
e-Lá sen (Liên
diệp, Ngẫu diệp): Vị đắng sáp, tính bình, tác dụng thanh nhiệt, lợi thấp, phát
thanh dương. cố tinh dừng huyết. Dùng trị cảm nắng, say nắng, xuất huyết do sốt
cao. Chữa các chứng cảm sốt mùa hè rất tốt. Ðã ứng dụng nhiều năm chữa sốt xuất
huyết thể nhẹ. Lá sen còn
dùng để hạ cholesterol và chữa bệnh mập phì.
f-Ngó sen (Ngẫu tiết): có tác dụng thanh nhiệt, tỉnh rượu, dừng
huyết Là một món ăn ngon, ngó sen còn dùng trị các chứng đại tiện ra máu,
tử cung xuất huyết kéo dài, khí hư bạch đới, tiêu chảy kéo dài. Ngó sen tươi
giã lấy nước, trị trúng nắng, đau bụng, mũi ra máu, sản hậu xuất huyết, viêm
ruột cấp tính, phổi kết hạch..Ngó sen tươi (bỏ đốt) 500 gam, gừng sống lấy
500 gam (bỏ vỏ sắt mỏng) bỏ vào vải sạch vắt lấy nước, ngày uống mấy lần, trị
cảm mạo mùa hạ, viêm ruột, phát nhiệt, khát, nôn mửa, tiêu chảy.
g-Cuống sen: Là ngó sen đã già, mang lá phát triển, không ăn được nhưng
có tác dụng làm thuốc trị tiêu chảy, kiết lỵ.
h-Củ sen: Vừa có giá trị thực phẩm bổ dưỡng vừa là dược liệu trị bệnh
biếng ăn, mất ngủ, suy dinh dưỡng.
Các bài thuốc từ cây sen
1-Chữa di tinh, hoạt tinh, di niệu: bài Cố tinh
hoàn, gồm liên nhục 2 kg, liên tu 1 kg, hoài sơn 2 kg, sừng nai 1
kg, khiếm thực 0,5 kg, kim anh 0,5 kg. Các vị tán thành bột, riêng kim anh nấu
cao, làm thành viên hoàn, ngày uống 10-20 g (theo Bác sĩ Quan Thế Dân).
2-Chữa tiêu chảy mãn tính: gồm liên
nhục 12 g, đảng sâm 12 g, hoàng liên 5 g. Các vị sắc uống hoặc tán bột uống mỗi
ngày 10 g (theo Bác sĩ Quan Thế Dân).
3-Chữa mất ngủ do tâm hỏa vượng: bài Táo nhân
thang, gồm táo nhân 10 g, viễn trí 10 g, liên tử 10 g, phục thần 10
g, phục linh 10 g, hoàng kỳ 10 g, đảng sâm 10 g, trần bì 5 g, cam thảo 4 g. Tất
cả sắc uống ngày 1 thang (theo Bác sĩ Quan Thế Dân).
4-Chán ăn do suy nhược: hạt sen 100g, bao tử
heo một cái. Bao tử rửa sạch, thái lát, thêm nước vừa đủ, tiềm cách thuỷ với
hạt sen, dùng trong ngày. (Theo ThS.BS Võ Thị Thu-Bộ môn Đông dược, Học viện Y
dược học cổ truyền Việt Nam ).
5-Chữa sốt cao nôn ra máu, chảy máu cam: bài Tứ sinh thang, gồm sinh địa tươi 24 g, trắc bá diệp tươi
12 g, lá sen tươi 12 g, ngải cứu tươi 8 g. Các vị nấu lấy nước uống nhiều lần
trong ngày.
6-Trị béo phì, hạ cholesterol máu cao: đây là công dụng mới được phát hiện của lá sen. Trên thị
trường hiện có bán nhiều loại trà giảm béo có lá sen, song có thể tự dùng bằng
cách nấu lá sen tươi uống thay nước hàng ngày, mỗi ngày 1 lá.
7-Chữa mất ngủ do tâm
hỏa vượng (Táo nhân thang)
Táo nhân 10g. Viễn trí 10g. Liên tử 10g. Phục thần 10g. Phục linh
10g. Hoàng kỳ 10g. Ðảng sâm 10g. Trần bì 5g.Cam thảo 4g.
Sắc uống ngày một thang.
8-Trị chứng hồi hộp,
mất ngủ, đau tim (Canh hạt sen, tim heo)
-Thành phần: 60 gr hạt sen, 1 cái tim heo, 40 gr
phòng đản sâm.
-Cách chế biến: Thái mỏng tim heo. Hạt sen đem
bóc bỏ vỏ ngoài và tim bên trong. Dùng rượu rửa sạch phòng đản sâm, rồi thái
khúc. Cho tất cả vào nồi cùng với 6 chén nước, nấu với lửa lớn đến khi sôi, để
sôi trong 10 phút, hạ lửa nhỏ, nấu tiếp 2 giờ nữa thì dùng được
9-Khó ngủ, hay hồi hộp, huyết áp cao:
lấy từ 1,5 – 3g tâm sen pha trà uống. Cách khác, lấy lá sen, hoa hoè mỗi vị
10g; cúc hoa vàng 4g, sắc uống hoặc lá sen loại bánh tẻ 30g rửa sạch, thái nhỏ,
phơi khô, sắc hoặc hãm uống. (Theo ThS.BS Võ Thị Thu-Bộ môn Đông dược, Học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam ).
10-Tiêu chảy, kiết lỵ: sen nguyên cọng chừng 60g, hai muỗng đường trắng. Cọng sen
rửa sạch, sắc uống kèm với đường. (Theo ThS.BS Võ Thị Thu-Bộ môn Đông dược, Học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam ).
11-Chán ăn do suy nhược: hạt sen 100g, bao tử heo một cái. Bao tử rửa sạch, thái lát,
thêm nước vừa đủ, tiềm cách thuỷ với hạt sen, dùng trong ngày. (Theo ThS.BS Võ Thị Thu-Bộ môn Đông dược, Học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam ).
12-Người nóng, nổi nhọt: hoa sen tươi 50g hoặc 30g loại khô, đường phèn 20g đem sắc
uống thay trà thường xuyên, hoặc dùng hoa sen đã sắc đắp tại chỗ. (Theo ThS.BS Võ Thị Thu-Bộ môn đông dược, Học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam ).
13-Tuổi già hay uể oải trong người: củ sen tươi 100g nấu chín, mỗi ngày ăn vào buổi sáng và
chiều. (Theo ThS.BS Võ Thị Thu-Bộ môn đông dược, Học viện Y
dược học cổ truyền Việt Nam ).
14-Băng huyết, chảy máu cam, tiêu tiểu ra máu: lá sen tươi 40g, rau má 12g. Sao vàng, thái nhỏ hai vị này,
sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày. Cách khác, lấy 10
ngó sen, giã nát lấy nước, thêm ít đường đỏ, đun lên uống ngày hai lần sáng và
tối. Trường hợp xuất huyết đường tiêu hoá có thể lấy nước ngó sen và nước ép củ
cải, mỗi thứ 20ml, trộn đều uống ngày hai lần, liên tục trong nhiều ngày. (Theo
ThS.BS Võ Thị Thu-Bộ môn đông dược, Học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam ).
15-Rôm sẩy, ghẻ lở: lá sen tươi băm nhỏ nấu với hạt đậu xanh (để nguyên vỏ) làm
canh ăn. (Theo ThS.BS Võ Thị Thu-Bộ môn đông dược, Học viện Y
dược học cổ truyền Việt Nam ).
16-Máu hôi không ra hết sau khi sinh: lá sen sao thơm 20 – 30g tán nhỏ, sắc với 200ml nước còn
50ml, uống làm một lần trong ngày. (Theo ThS.BS Võ Thị Thu-Bộ môn đông dược, Học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam ).
17-Sốt xuất huyết: lá sen 40g, ngó sen hoặc cỏ nhọ nồi 40g, rau má 30g, hạt mã
đề 20g, sắc uống ngày một thang. Nếu xuất huyết nhiều, có thể tăng liều của lá
và ngó sen lên 50 – 60g. (Theo ThS.BS Võ Thị Thu-Bộ môn đông dược, Học viện Y
dược học cổ truyền Việt Nam ).
18-Giun kim: hạt sen 50g, hạt hướng dương 30g, hạt bí đỏ bỏ vỏ 30g, hạt
cau 12g, đường phèn 20g. Xay nhỏ bốn loại hạt này rồi cho vào nồi nước 250ml,
đun chín nhừ, cho đường vào ăn ngày ba lần, ăn trong năm ngày. (Theo ThS.BS Võ Thị Thu-Bộ môn đông dược, Học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam ).
19-Chữa nôn: lấy 30g ngó sen sống, 3g gừng sống, giã nát cả hai thứ vắt
lấy nước, chia làm hai lần uống trong ngày (Theo ThS.BS Võ Thị Thu-Bộ môn đông dược, Học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam).
20-Chữa ho ra máu: Ngó sen 20g, bách hợp hoặc lá trắc bá
20g, cỏ nhọ nồi 10g, thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm
hai lần trong ngày (theo Bác sĩ Quan Thế Dân).
21-Chữa
băng huyết: Ngó sen sao,
tam lăng, nga truật, huyết dụ, bồ hoàng, mỗi vị 8g; bách thảo sương 6g. Sắc
uống ngày một thang (theo Bác sĩ Quan Thế Dân).
22-Chữa tiểu tiện ra máu: Ngó sen 12g, sinh địa 20g, hoạt thạch
16g; tiểu kê, mộc thông, bồ hoàng, đạm trúc diệp, sơn chi tử, mỗi vị 12g; chích
cam thảo, đương quy, mỗi vị 6g. Sắc uống trong ngày(theo Bác sĩ Quan Thế Dân).
23-Trị nôn ra máu: lá sen 15g, ngó sen 15g, cỏ nhọ nồi 20g. Cho các vị vào
nồi, đổ 3 bát nước sắc còn 1 bát, chia 2 lần uống trong ngày. ( theo Lương y
Minh Chánh).
24-Trị chảy máu cam:
ngó sen rửa sạch, giã vắt nước cốt uống, nhỏ vài giọt vào mũi. ( theo Lương y
Minh Chánh).
25-Trị trẻ biếng ăn,
người lớn suy nhược, ăn kém: hạt sen 100g, đậu ván trắng 10g, trần bì 12g,
mầm lúa 30g. Tất cả sao qua, tán mịn, ngày uống 3 lần mỗi lần 100g, uống với
nước cơm. ( theo Lương y Minh Chánh).
26-Chữa mất ngủ: Lá sen sắc đặc pha chút đường, uống trước khi đi ngủ khoảng
2 giờ sẽ ngủ ngon. ( theo Lương y Minh Chánh).
27- Trị viêm mũi, ngạt
mũi lâu ngày: cánh hoa sen thái chỉ phơi khô 100g, bạch chỉ 100g. Tất cả
tán mịn, cuốn giấy như cuốn thuốc, hút phả khói ra mũi liên tục trong vòng 1
tuần. ( theo Lương y Minh Chánh).
28-Trị đau lưng, mệt
mỏi: nhụy sen 4g, cam thảo 6g. Tất cả cho vào nồi, đổ 3 bát nước sắc còn 1
bát, uống trước khi đi ngủ. ( theo Lương y Minh Chánh).
29-Chữa
đái tháo đường: Tâm sen
8g; thạch cao 20g; sa sâm, thiên môn, mạch môn, hoài sơn, bạch biển đậu, ý dĩ,
mỗi vị 12g. Sắc uống ngày 1 thang. (theo Lương
y Minh Chánh).
30-Trà sen:
- Thành
phần: 400 gr nhụy
sen, 300 gr hạt sen và 400 gr cúc hoa.
-Cách làm: Nhụy sen đem phơi hoặc sấy khô. Hạt
sen đem ngâm nước nóng, bóc sạch vỏ ngoài và bỏ tim bên trong, sấy khô sao
vàng. Cúc hoa phơi khô trong mát (hoặc sấy). Đem cả 3 loại trên sao vàng cho
bốc mùi thơm, để nguội, cho vào lọ đậy kín, để dành dùng uống như trà. Loại trà
này giúp cho ăn, ngủ rất tốt (theo BS
Quan Thế Dân).Kỹ sư Hồ Đình Hải
Xem Video: Hoa sen trong tâm thức người Việt