CÂY CHÙM NGÂY
Cây chùm ngây
-Tên gọi khác: Cây kỳ diệu (tên từ nước ngoài).
-Tên tiếng Anh: Moringa tree, Drumstick tree, Horseradish tree, Indian Horseradish tree, ben oil tree.
-Tên khoa học: Moringa oleifera Lam.
-Tên đồng nghĩa: Moringa pterygosperma.
-Các loài tương
cận:
Moringa
stenopetala (Chùm ngây Châu Phi)
Phân loại khoa học
Cải (Brassicales)
|
|
Chùm ngây (Moringaceae)
|
|
Chùm ngây (Moringa)
|
|
Chi Chùm ngây (Moringa)
có 13 loài, tất cả
trong số chúng đều là các cây thân gỗ nhỏ, sinh sống trong khu vực nhiệt đới và cận
nhiệt đới. Khu vực phân bổ chủ yếu của chúng là Đông bắc và Tây nam Châu Phi, Madagascar, bán đảo Ả Rập và Nam Á.
Có 2 loài phổ biến nhất là:
-Cây Chùm ngây (cải ngựa) (Moringa oleifera), có nguồn gốc ở
vùng Nam Á từ khu
vực thuộc bang Kerala của Ấn
Độ. Loài cây này đã có lịch sử trồng trọt tới
hơn 4.000 năm. Nó rất phổ biến ở Châu Á và Châu Phi.
-Cây chùm ngây Châu Phi (Moringa stenopetala) ít phổ biến hơn.
Cây chùm ngây (Moringa oleifera) được trồng ở
những vùng đất khô, nhiệt đới hoặc bán
nhiệt đới. Cây này chuộng đất ráo nước, nhiều cát, dù là đất xấu cũng dễ mọc,
chịu được hạn hán.
Trong hầu hết các bộ phận của cây đều chứa các chất mà con
người cần như: Khoáng chất, vitamin, các axit amin, bêta-caroten, phenolics...
Cây Chùm Ngây rất phổ thông ở Ấn Độ và được dân tộc Ấn trân
trọng đặt tên là cây Độ Sinh (Tree
of Life). Các nhà dược học, các nhà
khoa học nghiên cứu thực vật học, dựa vào hàm lượng dinh dưỡng và nguồn dược
liệu quí hiếm được kiểm nghiệm, đã không ngần ngại đặt tên cho nó là cây Thần Diệu (Miracle Tree).
Phân bố
Bản địa của cây chùm ngây là ở vùng sơn cước Hi Mã Lạp Sơn ở Tây bắc Ấn Độ nhưng ngày nay được trồng rộng
rãi ở Châu Phi, Trung Mỹ, Nam Mỹ, và Đông Nam Á (Campuchia, Malaysia,
Indonesia).
Loài cây Chùm ngây (Moringa oleifera) được mọc hoang và trồng tại nhiều nơi trong khu vực nhiệt đới Châu Á và là loài duy nhất của Chi Chùm ngây có mặt tại Việt
Nam.
Cây Chùm ngây (Moringa oleifera), có ở Việt Nam
ta từ lâu đời (mọc hoang nhiều nhất ở vùng Ninh Thuận, Bình Thuận) nhưng trong
vài chục năm trở lại đây người ta nghiên cứu thấy nó có nhiều tác dụng đặc biệt
nên tưởng là cây mới du nhập.
Ở Việt Nam cây chùm ngây được trồng nhiều ở tỉnh Ninh Thuận và Bình
Thuận nhưng cũng có mặt ở nững tỉnh khác như Thanh
Hóa và đang được mở rộng ở khắp cả nước.
Có thể nói chùm ngây là một loài cây đa dụng; mỗi bộ phận
đều có thể dùng được.
Mô tả
Cây chùm ngây (Moringa oleifera) thuộc loài cây tiểu mọc, sống ở môi trường
khô ráo, không thích nghi môi trường úng nước.
-Thân: Là cây thân gổ nhỏ,
cao 5-6 m (có thể đến 10 m), phân cành nhiều.
-Lá: Lá kép ba lần dạng lông chim, dài 30-60 cm, lá chét hình tròn
hay hình trái xoan, dài 10-12 cm, màu xanh lục mốc, không lông, mọc đối từ 6-9
đôi, lá bẹ bao lấy chồi.
-Hoa: Hoa màu trắng, to, có cuống, mọc thành chùy ở nách lá, trông
hơi giống hao hoa Đậu, 5 cánh hoa, dảnh lên; 5 tiểu nhị thụ, xen với 5 tiểu nhị
lép; noãn sào 1 buồng, đính phôi trắc mô ba, có hương thơm, hoa nấu ăn được. Sau
trồng 8 tháng là cây bắt đầu cho hoa. Mùa hoa
tháng 1.
-Quả: Quả nang treo, dài 25-30 cm (có khi đến 55 cm), ngang 2-3
cm, có hình dáng giống quả đậu Cô ve, có 3 mảnh, dọc theo quả có khía rãnh.
-Hạt: Quả cho nhiều hột tròn, có 3 cạnh, cở hạt đậu Hà Lan, cở 0,5
cm, có cánh mỏng bao quanh.
Cây chùm ngây được trồng ở những vùng
đất khô, nhiệt đới hoặc bán
nhiệt đới. Cây này chuộng đất ráo nước, nhiều cát, dù là đất xấu cũng dễ mọc,
chịu được hạn hán.
Ở Việt Nam Cây chùm ngây trồng được ở cao độ dưới 500 m; lá
ăn được như rau, trái (nạc nương) dùng làm bột cà ri; dầu từ hột ăn được, có
tính làm giảm sự thụ thai. Cây gặp ở Nha Trang, Phan Thiết, Phú Quốc”.
Hoa cây chùm ngây
Quả cây chùm ngây xanh
Quả cây chùm ngây chín
Thành phần hóa học
a-Theo phân tích của người Pháp:
Đầu thập niên 1950, Vialard Goudou đã phân tích lá Chùm ngây
mà nhân dân Việt Nam bán ở các chợ để làm rau ăn, cho thấy lá cây chùm ngây rất
giàu dinh dưỡng, nhất là chất đạm, chất sắt và sinh tố C.
Lá Chùm ngây tươi chứa 6,35 g% chất đạm, 1,7 g% chất béo, 8
g% bột đường; 1,9 g% chất xơ; 3,75 g% chất khoáng; 50 mg% phosphor; 25 mg%
natri; 216 mg% kali; 122 mg% calci; 123 mg% magnesium; 0,1 mg% đồng, 16,4 mg%
sắt, 6.250 UI% sinh tố A; 0,3 mg% B2; 2,3 mg% PP và 110 mg% sinh tố C.
Sách Nghiên cứu y học cổ truyền Đông Dương (Les Plantes
Médicinales du Cambodge, du Laos et du Vietnam )
của Alfred Petelot, Saigon 1953, cho thấy tất
cả bộ phận của cây đều chứa một chất glycosid có vị cay cay giống như hột Cải
cay (mù tạc).
Thân, cành và vỏ rễ Chùm ngây chứa moringin (= belzylamil),
moringinin, athonin, spirochin, pterigospermin.
Chất gôm tiết từ thân cây Chùm ngây chứa polyuronid gồm
arabinoz, galactoz, rhamnoz, glycuronic acid. Mùi Cải ngựa và rễ Chùm ngây là
do chất benzyl - isothiocyanat.
b-Theo phân tích của người Mỹ
Theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA), thành phần chất dinh
dưỡng trong cây Chùm ngây (Moringa oleifera) như sau:
+Trong 100 gam lá
tươi của cây Chùm ngây có:
Thành phần dinh dưỡng trong 100 gam lá tươi
|
|
64 kcal (270 kJ)
|
|
8.28 g
|
|
- Chất
xơ
|
2.0 g
|
1.40 g
|
|
9.40 g
|
|
78.66 g
|
|
Vitamin A equiv.
|
378 μg (47%)
|
0.257 mg (22%)
|
|
0.660 mg (55%)
|
|
2.220 mg (15%)
|
|
Pantothenic
acid (B5)
|
0.125 mg (3%)
|
1.200 mg (92%)
|
|
Folate (vit. B9)
|
40 μg (10%)
|
51.7 mg (62%)
|
|
185 mg (19%)
|
|
4.00 mg (31%)
|
|
147 mg (41%)
|
|
0.36 mg (17%)
|
|
112 mg (16%)
|
|
337 mg (7%)
|
|
9 mg (1%)
|
|
0.6 mg (6%)
|
|
Ghi chú: Tỷ lệ % so với
nhu cầu hàng ngày của người lớn theo tiêu chuẩn của US recommendations .
Nguồn: USDA Nutrient Database |
+So sánh chất dinh
dưỡng trong lá cây chùm ngây với một số thực phẩm khác
Chất dinh dưỡng
|
Thực phẩm thông dụng
|
Lá cây chùm ngây
|
|
Vitamin A
|
Củ Carrot
|
1.8 mg
|
6.8 mg
|
Calcium
|
Sữa
|
120 mg
|
440 mg
|
Potassium
|
Chuối
|
88 mg
|
259 mg
|
Protein
|
Yogurt
|
3.1 g
|
6.7 g
|
Vitamin C
|
30 mg
|
220 mg
|
|
+Thành phần dinh
dưỡng trong 100 gam hạt tươi
Thành phần trong 100 gam hạt tươi
|
|
37 kcal (150 kJ)
|
|
8.53 g
|
|
- Chất
xơ
|
3.2 g
|
0.20 g
|
|
2.10 g
|
|
88.20 g
|
|
Vitamin A equiv.
|
4 μg (1%)
|
0.0530 mg (5%)
|
|
0.074 mg (6%)
|
|
0.620 mg (4%)
|
|
Pantothenic
acid (B5)
|
0.794 mg (16%)
|
0.120 mg (9%)
|
|
Folate (vit. B9)
|
44 μg (11%)
|
141.0 mg (170%)
|
|
30 mg (3%)
|
|
0.36 mg (3%)
|
|
45 mg (13%)
|
|
0.259 mg (12%)
|
|
50 mg (7%)
|
|
461 mg (10%)
|
|
42 mg (3%)
|
|
0.45 mg (5%)
|
|
Ghi chú: Tỷ lệ % so với
nhu cầu hàng ngày của người lớn theo tiêu chuẩn của US recommendations .
Nguồn: USDA Nutrient Database |
c-Theo phân tích của Campden and Chorleywood
Food Research Association ( http://www.moringatree.co.za/analysis.html):
Bảng phân tích hàm lượng dinh dưỡng của quả, lá tươi và bột
khô của lá cây Chùm Ngây theo báo cáo ngày 17/7/1998 của Campden and
Chorleywood Food Research Association.
BẢNG
PHÂN TÍCH HÀM LƯỢNG DINH DƯỠNG CỦA CHÙM NGÂY
|
||||
STT
|
Thành phần dinh dưỡng/100gr
|
Quả tươi
|
Lá tươi
|
Bột lá khô
|
01
|
Water ( nước ) %
|
86,9 %
|
75,0 %
|
7,5 %
|
02
|
calories
|
26
|
92
|
205
|
03
|
Protein ( g )
|
2,5
|
6,7
|
27,1
|
04
|
Fat ( g ) ( chất
béo )
|
0,1
|
1,7
|
2,3
|
05
|
Carbohydrate ( g
)
|
3,7
|
13,4
|
38,2
|
06
|
Fiber ( g ) (
chất xơ )
|
4,8
|
0,9
|
19,2
|
07
|
Minerals ( g ) (
chất khoáng )
|
2,0
|
2,3
|
_
|
08
|
Ca ( mg )
|
30
|
440
|
2003
|
09
|
Mg ( mg )
|
24
|
25
|
368
|
10
|
P ( mg )
|
110
|
70
|
204
|
11
|
K ( mg )
|
259
|
259
|
1324
|
12
|
Cu ( mg )
|
3,1
|
1,1
|
0,054
|
13
|
Fe ( mg )
|
5,3
|
7,0
|
28,2
|
14
|
S ( g )
|
137
|
137
|
870
|
15
|
Oxalic acid ( mg
)
|
10
|
101
|
1,6
|
16
|
Vitamin A - Beta
Carotene (mg)
|
0,11
|
6,8
|
1,6
|
17
|
Vitamin B -
choline ( mg )
|
423
|
423
|
-
|
18
|
Vitamin B1 -
thiamin ( mg )
|
0,05
|
0,21
|
2,64
|
19
|
Vitamin B2 -
Riboflavin ( mg )
|
0,07
|
0,05
|
20,5
|
20
|
Vitamin B3 -
nicotinic acid (mg)
|
0,2
|
0,8
|
8,2
|
21
|
Vitamin C -
ascorbic acid ( mg )
|
120
|
220
|
17,3
|
22
|
Vitamin E -
tocopherol acetate
|
-
|
-
|
113
|
23
|
Arginine (
g/16gN )
|
3,66
|
6,0
|
1,33 %
|
24
|
Histidine (
g/16gN )
|
1,1
|
2,1
|
0,61%
|
25
|
Lysine ( g/16gN
)
|
1,5
|
4,3
|
1,32%
|
26
|
Tryptophan (
g/16gN )
|
0,8
|
1,9
|
0,43%
|
27
|
Phenylanaline (
g/16gN )
|
4,3
|
6,4
|
1,39 %
|
28
|
Methionine (
g/16gN )
|
1,4
|
2,0
|
0,35%
|
29
|
Threonine (
g/16gN )
|
3,9
|
4,9
|
1,19 %
|
30
|
Leucine ( g/16gN
)
|
6,5
|
9,3
|
1,95%
|
31
|
Isoleucine (
g/16gN )
|
4,4
|
6,3
|
0,83%
|
32
|
Valine ( g/16gN
)
|
5,4
|
7,1
|
1,06%
|
d- Theo các nguồn phân tích khác
-Lá chứa: Các
hợp chất loại flanonoids và phenolic như kaempferol 3-O-alpha-rhamnoside,
kaempferol, syringic acid, gallic acid, rutin, quercetin 3-O-beta-glucoside.
Các flavonol glycosides được xác định đều thuộc nhóm kaempferide nối kết với
các rhamnoside hay glucoside.
-Rễ chứa: Glucosinolates như 4-(alpha-L-rhamnosyloxy)benzyl
glucosinolate (chừng 1%) sau khi chịu tác động của myrosinase, sẽ cho
4-(alpha-L-rhamnosyloxy) benzyl isothiocyanate. Glucotropaeolin (chừng 0.05%)
sẽ cho benzylisothiocyanate.
-Hạt chứa: Glucosinolates ( như trong rễ) : có
thể lên đến 9% sau khi hạt đã được khử chất béo.Các acid loại phenol carboxylic
như 1-beta-D-glucosyl-2,6-dimethyl benzoate.Dầu béo (20-50%) : phần chính gồm
các acid béo như oleic acid (60-70%), palmitic acid (3-12%), stearic acid
(3-12%) và các acid béo khác như behenic acid, eicosanoic và lignoceric acid…
Vài số liệu so sánh
chất dinh dưỡng ở lá chùm ngây
-Vitamin C gấp 7 lần nhiều hơn trái Cam
-Vitamin A gấp 4 lần nhiều hơn Cà-rốt
-Calcium gấp
4 lần nhiều hơn sữa
-Chất sắt gấp 3 lần so
với cải bó xôi
-Chất đạm (protein)
gấp 2 lần nhiều hơn Ya-ua
So sánh dinh dưỡng của lá chùm ngây với thực phẩm khác
Công dụng
a-Đọt non, lá non, hoa và quả, hạt non của cây được dùng làm rau
Cây chùm ngây (Moringa oleifera) là một loài thực
vật được trồng và thu hoạch như
một loại rau sạch vừa là cây thuốc có giá trị.
Các bộ phận dùng làm rau gồm:
-Đọt và lá non: Được dùng làm rau phổ biến ở Việt Nam, Cam-pu-chia, Phi-líp-pin, Nam Ấn Độ,
Sri Lanka và Châu Phi.
-Búp hoa: Được làm rau xào hoặc nấu như đậu Hà Lan.
-Hoa: Có thể ăn được
khi nấu chín và có mùi như nấm.
-Quả và hạt non: Được gọi là "đùi", được dùng làm ra phổ biến ở Châu Á và Châu Phi. Trong vỏ hạt rất
giàu vitamin C và vitamin B và các khoáng chất. Quả và hạt non ăn như Đậu Hà
Lan.
Hoa, lá và cành non, trái non đều luộc ăn được, lại có kích
thích tiêu hóa và có tính kháng sinh (nhờ chất lacton: ptyrigospermin).
Lá cây chùm ngây được xem là phần bổ dưỡng nhất của của cây, là một
nguồn quan trọng của vitamin B6, vitamin C, tiền vitamin A như beta-carotene,
magiê và protein, trong số các chất dinh dưỡng khác theo báo cáo của USDA điều
rất cao.
-Ở phương Tây, các lá được nấu chín và
được sử dụng như rau bina. Ngoài được sử dụng tươi thay thế cho rau bina, lá
của nó còn được sấy khô và nghiền thành bột được sử dụng trong súp và nước sốt.
Điều quan trọng là phải nhớ rằng giống như hầu hết các loài rau khi nhiệt độ
trên 140 độ F sẽ phá hủy một số chất dinh dưỡng.
-Ở Nam Ấn Độ và Sri Lanka, các đọt non của cây chùm ngây được chiên, hoặc
nấu cà ri với nước cốt dừa, hạt poppy để tăng thêm hương vị của món cà ri chua
hay ngọt. Bẹ lá được để nguiye6n hoặc xắt nhỏ để trang trí cho các món rau và
sa lát để tăng thêm hương vị. Lá được sử dụng thay thế hoặc cùng với rau mùi.
Ở một số vùng, những bông hoa được thu
gom và làm sạch để nấu chín với các món xào besan và pakoras.
-Ở Bangladesh , đọt cây chùm ngây được
dùng để nấu các món cà ri, sambars, kormas và anddals như ở Ấn Độ, ngoài ra nó
còn được dùng để tăng hương vị cho các món nấu với thịt và nhiều món ăn khác.
Thị quả và hạt non được dùng để nấu canh, Lá non được chiên với tôm hoặc thêm
vào các món súp cá sang trọng.
-Ở Đông Java (Indonesia ) lá và đọt non cây chùm
ngây được dùng để nấu món canh chua hoặc súp rau hỗn hợp. Lá có thể được chiên
và trộn với thịt cá ngừ (cá Maldive) chiên khô, hành tây và ớt khô. Ở Khu vực Maldives ,
món súp được nấu từ gạo với lá cây chùm ngây để dùng trong tháng ăn kiêng Ramazan.
Quả non được dùng trong món trứng tráng và để nấu món cà ri nhẹ.
-Ở Pakistan, tại khu vực Saraiki Nam
Punjab, búp hoa cây chùm ngây được luộc chín, tán nhuyễn và để đông lại, dùng
để nêm vào các món ăn ưa thích.
-Ở Thái Lan đọt non, lá và hoa cây chùm
ngây dùng để nấu các món cà ri, xào, súp, trứng gà rán và rau trộn. Một trong
những món ăn truyền thống nhất là món Cà ri chua Thái được nấu với cụm hoa và cá.
-Ở Campuchia lá cây chùm ngây được nấu
thành món canh gọi là m'rum hoặc súp hỗn hợp được gọi là korko.
-Ở Philippines lá cây chùm ngây được
bán phổ biến trên thị trường với giá cả phải chăng. Các lá thường được nấu món
súp đơn giản và bổ dưỡng. Các lá đôi khi cũng được sử dụng như là một thành
phần đặc trưng trong món intinola, một món canh gà truyền thống của Philippines
được nấu bằng thịt gà với lá chùm ngây và đu đủ xanh. Lá cây chùm ngây còn được
trộn với dầu ô liu, nước sốt pasta pesto đã trở thành phổ biến trên trường ẩm
thực Philippines .
Nước trái cây chùm ngây pha chanh dùng làm bánh kẹo và nước đá hoặc thức uống
lạnh dược dùng cho những người không ưa thích ăn rau.
-Ở Việt Nam lá cây chùm ngây được dùng trong ẩm để nấu canh. Hoa chùm
ngây phơi khô có thể dùng nấu lấy nước uống như một loại trà. Trái non được dùng như đậu ve. Khi già, hạt chùm ngây thì có thể đem
rang lên và ăn như đậu phộng.
Nước giải khát từ lá cây chùm ngây ở Ấn Độ
Trà túi lọc từ cây chùm ngây ở Việt Nam
b-Các bộ phận cây chùm ngây được dùng làm thuốc
b-1-Theo Đông y
Vỏ cây, nhựa cây, rễ, lá, hạt, dầu, và
hoa được sử dụng trong y học cổ truyền ở một số nước.
Theo Y học cổ truyền nước ngoài
thì các bộ phận của cây như lá, rễ, hạt, vỏ cây, quả và hoa.. có những hoạt
tính như kích thích hoạt động của tim và hệ tuần hoàn, hoạt tính chống u-bướu,
hạ nhiệt, chống kinh phong, chống sưng viêm, trị ung loét, chống co giật, lợi
tiểu, hạ huyết áp, hạ cholesterol, chống oxy-hóa, trị tiểu đường, bảo vệ gan,
kháng sinh và chống nấm.. Cây đã được dùng để trị nhiều bệnh trong Y-học dân
gian tại nhiều nước trong vùng Nam Á. (Phytotherapy Research Số 21-2007).
+Ở Ấn Độ:
Cây Chùm Ngây được gọi là sainjna, mungna (Hindi, Asam, Bengal ..).
Là một trong những cây thuốc “dân gian” rất thông dụng tại Ấn Độ.
-Lá trị ốm còi, gây nôn và đau bụng khi có kinh.
-Vỏ thân được dùng trị nóng sốt, đau bao tử, đau bụng khi có
kinh, sâu răng, làm thuốc thoa trị hói tóc; trị đau trong cổ họng (dùng chung
với hoa của cây nghệ, hạt tiêu đen, rễ củ Dioscorea oppositifolia); trị kinh
phong (dùng chung với thuốc phiện); trị đau quanh cổ (thoa chung với căn hành
của Melothria heterophylla, Cocci niacordifolia, hạt mướp (Luffa) và hạt Lagenaria vulgaris); trị tiểu ra máu; trị thổ tả (dùng chung với vỏ
thân Calotropis gigantea, Tiêu đen,
và Chìa vôi.
-Thân cây bị vết chặt sẽ tiết ra một gôm trắng đục, sau phơi
nắng trở thành hồng hay đỏ nâu ở mặt ngoài. Gôm này có tính trương nở lớn, ở Ấn
Độ người ta đã biết dùng làm trương nở cổ tử cung để phá thai (Pharmacographia
Indica 1890).
-Hoa dùng làm thuốc bổ, lợi tiểu. Quả giã kỹ với gừng và lá
Justicia gendarussa để làm thuốc đắp trị gẫy xương.
-Hạt: dầu từ hạt để trị phong thấp.
+Ở Pakistan :
Cây chùm ngây được gọi là Sajana, Sigru. Cũng như tại Ấn, Cây Chùm Ngây được
dùng rất nhiều để làm các phương thuốc trị bệnh trong dân gian. Ngoài các
cách sử dụng như tại Ấn độ, các thành phần của cây còn được dùng như:
-Lá giả nát đắp lên vết thương, trị sưng và nhọt, đắp và
bọng dịch hoàn để trị sưng và sa; trộn với mật ong đắp lên mắt để trị mắt sưng
đỏ..
-Vỏ thân dùng để phá thai bằng cách đưa vào tử cung để gây
giãn nở.
-Vỏ rễ dùng sắc lấy nước trị đau răng, đau tai..Rễ tươi của
cây non dùng trị nóng sốt , phong thấp, gout, sưng gan và lá lách..
-Nhựa từ chồi non dùng chung với sữa trị nhức đầu, sưng
răng..
+Ở cChâu Phi và Indonesia :
-Lá cây chùm ngây được các bà mẹ nuôi
con ăn để tin rằng chúng làm tăng tiết sữa.
+Ở Trung Mỹ:
-Hạt Cây Chùm Ngây được dùng trị táo bón, mụn cóc và giun
sán.
+Ở Saudi
Arabia :
Hạt Cây Chùm Ngây được dùng trị đau bụng,
ăn không tiêu, nóng sốt, sưng tấy ngoài da, tiểu đường và đau thắt ngang hông.
+Ở Senegal : Người ta dùng cành, lá sắc uống trị còi xương, viêm cuống
phổi, phù nề, thấp khớp.
+Ở Philippines : Người ta dùng rễ làm thuốc đắp thế mù tạc làm tụ máu, nó
gây cảm giác rất đau.
Theo Y học cổ truyền Việt Nam
thì cành lá cây chùm ngây luộc ăn hay sắc uống kích thích tiêu hóa, kiện vị,
trị tiêu chảy, kiết lỵ, viêm phổi. Rễ Chùm ngây sắc uống, có tác dụng kiện vị;
giã đắp làm sung huyết (tụ máu) thay cải Mù tạc trị thấp khớp.
Rễ Cây Chùm Ngây được cho là có tính
kích thích, giúp lưu thông máu huyết, làm dễ tiêu hóa, tác dụng trên hệ thần
kinh, làm dịu đau. Hoa có tính kích dục. Hạt làm giảm đau. Nhựa (gomme) từ thân
có tác dụng làm dịu đau.
Chú ý! Liều lượng và các phản
ứng phụ cần lưu ý!
Hiện nay chưa có những báo cáo về những nguy hại đối với sức
khoẻ trong việc sử dụng Hạt và Rễ Cây Chùm Ngây theo các liều
lượng trị liệu. Tuy nhiên dùng liều quá cao có thể gây ra buồn nôn, chóng mặt
và ói mửa.
Liều cho uống : 5gram/ kg trọng lượng cơ thể, thử trên chuột,
gây phản ứng keratin hóa quá mức tế bào bao tử và sơ hóa tế bào gan.
Liều chích qua màng phúc toan 22 đến 50 mg/ kg trọng lượng
cơ thể gây tử vong nơi chuột thử nghiệm.
Không nên dùng Rễ Cây
Chùm Ngây nơi phụ nữ có thai, vì có khả năng gây trụy thai. (theo
DS Trần Viết Hưng/ ĐH Cần Thơ).
b-2-Theo Tây y
Cây Chùm Ngây (Moringa oleifera) được xem là
một cây đa dụng, rất hữu ích tại những quốc gia nghèo thuộc “Thế giới thứ ba”
nên đã được nghiên cứu khá nhiều về các hoạt tính dược dụng, giá trị dinh dưỡng
và công nghiệp. Đa số các nghiên cứu được thực hiện tại Ấn Độ, Philippines , và
Phi Châu..
Do là cây rau và cây thuốc
còn được mệnh danh là cây Độ Sinh (Tree of Life)
hay cây Thần Diệu (Miracle Tree) nên cây
chùm ngây là một trong những loài cây rau làm thuốc được nghiên cứu nhiều nhất
thế giới.
1-Khả năng kháng sinh diệt vi khuẩn và vi nấm:
-Chất Athonin có tác dụng kháng sinh trên vi trùng dịch tả (Vibrio cholerae) và hoạt tính của nó nằm
giữa chloromycetin và streptomycin (Sen Gupta và cs 1956).
-Chất Spirochin có tính kháng sinh trên vi khuẩn gram+ nhất
là chống Staphyllococcus và Streptococcus (Chatterjee, 1951).
-Dịch chiết từ cây chùm ngây được xác
định tác dụng kháng sinh chống lại nhiều dòng vi khuẩn nhờ hoạt chất Pterigospermin của nó.
-Chất Pterigospermin là kháng sinh quan trọng nhất của cây Chùm
ngây, với kháng khuẩn phổ rộng, trên cả vi khuẩn gram+ lẫn gram-: Micrococcus pyogenes var. aureus, Bacillus subtilis, Escherichia coli, Aerobacter
aerogenes, Salmonella typhi, Salmonella enteritidis, Shigella dysenteriae, Mycobacterium tuberculosis (Kurup và
Narasimha 1954).
-Chất chiết từ vỏ cây có tính kháng sinh trên Micrococcus pyogenes var. aureus, Bacillus subtilis, Diplococcus pneumoniae, Streptococcus
pyogenes, Escherichia coli, Salmonella typhi, Vibrio coma, Shigella
dysenteriae, Mycobacterium phlei.
Nó cũng ức chế vi nấm Microsporum
gypseum, Trichophyton mantagrophytes,
Candida albicans, Helminthosporium sativum (Bhatnaga và cs
1961).
-Trích tinh lá bằng ether có tác dụng trụ sinh
(bacteriostatic activity) đối với Staphyllococcus
aureus và Salmonella typhi
(Bhawasa và cs 1965).
-Chất 4 (alpha-L-Rhamnosyloxy) benzyl isothiocyanate được
xác định là có hoạt tính kháng sinh mạnh nhất trong các hoạt chất trích từ hạt
Chùm Ngây (trong hạt Chùm Ngây còn có benzyl isothiocyanate). Hàm lượng chất
này rất cao: 8 - 10%, với điều kiện trong quá trình tách chiết phải thêm
ascorbic acid vào nước trích. Nó có tác dụng kháng sinh với rất nhiều vi khuẩn
và vi nấm (Eilert và cs, 1981).
Nồng độ tối thiểu để ức chế Bacillus subtilis là 56 micromol/l và để ức chế Mycobacterium phlei là 40 micromol/l
(Planta Medica Số 42-1981).
-Nghiên cứu tại Viện Institute
of Bioagricultural Sciences, Academia Sinica, Đài Bắc (Taiwan) ghi nhận
dịch chiết từ lá và hạt Chùm Ngây bằng ethanol có các hoạt tính diệt được nấm
gây bệnh loại Trichophyton rubrum, Trichophyton mentagrophytes, Epidermophyton floccosum và Microsporum canis. Các phân tích hóa học
đã tìm được trong dầu trích từ lá Chùm Ngây đến 44 hóa chất kháng sinh.
(Bioresource Technology Số 98-2007).
2-Tác dụng
của quả Chùm Ngây trên cholesterol và lipid trong máu:
Nghiên cứu tại Đại Học Baroda, Kalabhavan, Gujarat (Ấn Độ)
về hoạt tính trên các thông số lipid của quả Chùm Ngây, thử trên thỏ, ghi nhận
: Thỏ cho ăn Chùm Ngây (200mg/kg mỗi ngày) hay uống lovastatin (6mg/kg/ ngày)
trộn trong một hổn hợp thực phẩm có tính cách tạo cholestero cao, thử nghiệm
kéo dài 120 ngày. Kết quả cho thấy Chùm Ngây và Lovastatin có tác dụng gây hạ
cholesterol, phospholipid, triglyceride, VLDL, LDL hạ tỷ số cholesterol/
phospholipid trong máu..so với thỏ trong nhóm đối chứng. Khi cho thỏ bình
thường dùng Chùm Ngây hay Lovastatin : mức HDL lại giảm hạ nhưng nếu thỏ bị cao
cholesterol thì mức HDL lại gia tăng. Riêng Chùm Ngây còn có thêm tác dụng làm
tăng sự thải loại cholesterol qua phân (Journal of Ethnopharmacology Số
86-2003).
3-Giảm bệnh tiểu đường:
Dịch chiết từ cây chùm ngây được xác
định cải thiện dung nạp glucose (glucose
tolerance) trên mô hình thí nghiệm chuột mắc bệnh tiểu đường (diabetes), ức
chế hoạt động của virus Epstein-Barr trong ống nghiệm (in vitro) và
giảm bệnh viêm da do virus (papillomas) ở chuột.
4-Tính kháng ung thư:
Chất chiết bằng cồn của cây Chùm ngây, kể cả rễ, có tính
kháng ung thư biểu mô mũi hầu, trên mô cấy và tế bào lymphô P388 của ung thư
bạch cầu của Chuột (Dhawan và cs 1980).
5-Các hoạt
tính chống co-giật, chống sưng và gây lợi tiểu:
Dịch trích bằng nước nóng của hoa, lá, rễ, hạt..vỏ thân Chùm
Ngây đã được nghiên cứu tại Trung Tâm Nghiên cứu Kỹ Thuật (CEMAT) tại Guatamala
City về các hoạt tính dược học, thử nơi chuột. Hoạt tính chống co giật được
chứng minh bằng thử nghiệm trên chuột đã cô lập, hoạt tính chống sưng thử trên chân
chuột bị gây phù bằng carrageenan và tác dụng lợi tiểu bằng lượng nước tiểu thu
được khi chuột được nuôi nhốt trong lồng.
Nước trích từ hạt cho thấy tác động ức chế khá rõ sự co giật
gây ra bởi acetylcholine ở liều ED50= 65.6 mg/ml môi trường ; tác động ức chế
phụ gây ra do carrageenan được định ở 1000mg/kg và hoạt tính lợi tiểu cũng ở
1000 mg/kg. Nước trích từ Rễ cũng cho một số kết quả (Journal of
Ethnopharmacology Số 36-1992).
6-Khả
năng ngừa thai của Rễ Chùm Ngây:
Nghiên cứu tại Đại Học Jiwaji, Gwalior (Ấn Độ) về các hoạt
tính estrogenic, kháng estrogenic, ngừa thai của nước chiết từ Rễ Chùm Ngây ghi
nhận chuột đã bị cắt buồng trứng, cho uống nước chiết, có sự gia tăng trọng
lượng của tử cung. Hoạt tính estrogenic được chứng minh bằng sự kích thích hoạt
động mô tế bào tử cung.
Khi cho chuột uống nước chiết này chung với estradiol
dipropionate (EDP) thì có sự tiếp nối tụt giảm trọng lượng của tử cung so sánh
với sự gia tăng trọng lượng khi chỉ cho chuột uống riêng EDP. Trong thử nghiệm
deciduoma liều cao nhất 600mg/kg có tác động gây rối loạn sự tạo deciduoma nơi
50 % số chuột thử . Tác dụng ngừa thai của Rễ Chùm Ngây được cho là do nhiều
yếu tố phối hợp (Journal of Ethnopharmacology Số 22-1988).
7-Các
chất gây đột biến genes từ hạt Chùm ngây rang chín:
Một số các hợp chất các chất gây đột biến genes đã được tìm
thấy trong hạt Chùm Ngây rang chín: Các chất quan trọng nhất được xác định là 4
(alpha Lrhamnosyloxy) phenylacetonitrile; 4 - hydroxyphenylacetonitri le và 4 –
hydroxyphenyl - acetamide. (Mutation Research Số 224-1989).
8-Hoạt
tính của Rễ Chùm ngây trên Sạn thận loại Oxalate:
Thử nghiệm tại Đại Học Dược K.L.E.S, Nehru Nagar, Karnakata
(Ấn Độ) trên chuột bị gây sạn thận, oxalate bằng ethylen glycol ghi nhận dịch
chiết bằng nước và alcohol rễ cùng lõi gỗ Chùm Ngây làm giảm rõ rệt nồng độ
oxalate trong nước tiểu bằng cách can thiệp vào sự tổng hợp oxalate trong cơ
thể. Sự kết đọng tạo sạn trong thận cũng giảm rất rõ khi cho chuột dùng dịch
chiết này như một biện pháp phòng ngừa bệnh sạn thận.
9-Dùng hạt
Chùm ngây để lọc nước:
Hạt Chùm Ngây có chứa một số hợp chất “đa điện giải”
(polyelectrolytes) tự nhiên có thể dùng làm chất kết tủa để làm trong nước.
Kết quả thử nghiệm lọc nước: Nước đục (độ đục 15-25 NTU,
chứa các vi khuẩn tạp 280-500 cfu ml (-1), khuẩn coli từ phân 280-500 MPN 100
ml(-1). Dùng hạt Chùm Ngây làm chất tạo trầm lắng và kết tụ, đưa đến kết quả
rất tốt (độ đục còn 0.3-1.5 NTU; vi khuẩn tạp còn 5-20 cfu; và khuẩn coli còn
5-10 MPN..) Phương pháp lọc này rất hữu dụng tại các vùng nông thôn của các
nước nghèo..và được áp dụng khá rộng rãi tại Ấn độ (Journal of Water and Health
Số 3-2005).
Lưu ý! Một số canxi trong lá cây chùm ngây ở dạng như tinh thể calcium oxalate có
thể ức chế khả cấp canxi cho cơ thể. Không phải rõ ràng trong việc tính toán
lượng canxi trong lá cây chùm ngây ở dạng khả dụng hay canxi không khả dụng
sinh học.
Tóm lại: Cây Chùm ngây có
khả năng phòng và trị rất nhiều bệnh như: Ung thư, tiểu đường, thiếu máu, còi
xương, bệnh tim mạch, ung loét, co giật, bệnh gan... Nó giúp hạ huyết áp và hạ
cholesterol, chống oxy hóa...
Mặc dù trong kinh nghiệp dân gian và Đông y đã
có nhiều trải nghiệm thực tiển nhưng về mặt khoa học chính xác cần có thêm
nhiều nghiên cứu và kết luận của Tây y, không nên quá chủ quan kỳ vọng thái quá
vào các bài thuốc dân gian và Đông dược.
c-Chùm ngây là loài cây chống suy giảm dinh
dưỡng
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Tổ chức Nông lương Thế giới
(FAO) đều đề cao cây chùm ngây, coi nó là cứu tinh cho người nghèo, đặc biệt ở
các nước thuộc thế giới thứ 3.
Lá non có thể hái làm rau cho con người, tăng thành phần dinh dưỡng và giúp phát triển nông thôn thêm phần
tự túc nhất là ở những quốc gia
đang phát triển. Được Tổ chức Lương nông thế giới (FAO) khuyến cáo nên trồng và
phát triển rộng.
Theo FAO, bằng cách trồng cây chùm ngây, nhà nông có thể tận
dụng đất xấu, cây cho nhiều bộ phận giàu dinh dưỡng và được thu hoạch như một loại rau.
Cây chùm ngây đã được sử dụng để chống
suy dinh dưỡng, đặc biệt là trẻ sơ sinh và bà mẹ đang cho con bú.
-Đối
với trẻ em từ 1-3 tuổi, cứ ăn 20g lá chùm ngây tươi là cung ứng 90% Calcium, 100%
Vitamin C, Vitamin A, 15% chất sắt, 10% chất đạm cần thiết và hàm luợng
Potassium, Đồng…và Vitamin B bổ sung cần thiết cho trẻ.
+Đối với các bà mẹ đang mang thai và cho con bú, chi cần
dùng 100g lá tươi mỗi ngày là đủ bổ sung Calcium, Vitamin C, VitaminA, Sắt,
Đồng, Magnesium, Sulfur, các vitamin B cần thiết trong ngày.
(Nguồn:
http://www.moringatree.co.za/analysis.html)
Bốn Tổ chức phi chính phủ (NGOs) gồm:
-Church World Service
-Educational Concerns for Hunger
Organization
-và Volunteer Partnerships for West
Africa đã quan tâm đến nạn suy dinh
dưỡng ở thế giới thứ 3 và ủng hộ chủ trương của FAO để cải thiện sức khỏe người
nghèo bằng cách phát động trồng nhiều cây chùm ngây.
Các Tổ chức này cho rằng: “ Cây chùm ngây đặc biệt hứa hẹn như là một nguồn thực
phẩm ở vùng nhiệt đới bởi vì cây lá mọc đầy đủ vào cuối mùa khô khi các loại
thực phẩm khác thường khan hiếm” và “ cây chùm ngây chính là nguồn dinh dưỡng
tự nhiên cho vùng nhiệt đới."
c-Các công dụng khác của cây chùm ngây
+Các công dụng
thực phẩm khác
-Các bộ phận của cây chứa nhiều khoáng chất quan trọng, và
là một nguồn cung cấp chất đạm, vitamins, beta-carotene, acid amin và nhiều hợp
chất phenolics…
-Quả non được dùng như đậu
ve.
-Rễ cây
được dùng ở Châu Âu làm gia vị kích thích tiêu hóa thế Cải gia vị (Raifort hay
Horse Radish - Cải ngựa).
-Hoa chùm ngây
phơi khô có thể dùng nấu lấy nước uống như một loại trà.
-Hạt khô chứa loại 38-40% dầu béo ăn
được gọi là dầu ben giàu axit behenic, dầu không mùi, chống vị ôi, dược dùng
trong thực phẩm, mỹ phẩm và nhiên liệu sinh học.
Hột khô rang ăn (như Đậu phộng); dầu hột Chùm ngây ăn được,
thuộc dầu lâu khô nên có thể dùng làm mỹ phẩm hay tá dược.
Ở vùng nhiệt đới, lá chùm ngây được dùng làm thực phẩm cho gia súc.
+Làm nguyên liệu
thực phẩm, mỹ phẩm, tân dược và công nghiệp:
Mỹ hiện nay là nước nhập nguyên liệu Cây chùm ngây thô nhiều nhất, sử dụng trong công
nghê nước uống, mỹ phẩm cao cấp, và quan trong hơn là chiết suất thành nguyên
liệu tinh cung ứng cho công nghiệp dược phẩm, hóa chất.
Nghiên cứu rộng rãi nhất về giá trị của cây chùm ngây được
thực hiện tại Trường Đại học Nông Nghiệp Falsalabad, Pakistan cho biết cây chùm
ngây là một loài cây có giá trị kinh tế cao, cây phân bố tại nhiều quốc gia
nhiệt đới và cận nhiệt đới. Cây vừa là một nguồn dược liệu và là một nguồn thực
phẩm rất tốt.
Ở Jamaica , nhựa cây được sử dụng cho
một loại thuốc nhuộm màu xanh.
Bánh dầu được sử dụng làm phân bón và
làm chất khử nước nhờ chất keo kết tụ chất cặn bả trong nước.
+Lá cây chùm ngây dùng để dưỡng da : Tại Mỹ và các nước Châu Âu, cây chùm
ngây được sử dụng rộng rãi trong công nghệ dưỡng da, mỹ phẩm cao cấp.
Cách dùng đơn giản, các bà các cô có thể áp dụng ngay: giã
nhuyễn 20g lá, để không hoặc trộn với dầu lấy từ hạt Chùm ngây thoa đắp 2 lần,
mỗi lần 7 phút trong một ngày, trong một tuần sẽ thấy hiệu nghiệm.
Lưu ý! Không nên ủ đắp trên da mặt quá lâu trên 10 phút (theo
kinh nghiệm từ quý bà).
+Bột hạt cây chùm ngây dùng để lọc nước: Bột hạt cây chùm ngây được đánh giá có
khả năng lọc nước tốt. Người ta nghiền hạt cây chùm ngây khô thành bột rồi hòa với ít nước thành một “dịch cái” rồi tùy theo độ bẩn
của nước muốn khử trùng mà pha vào từ 1- 3% dịch cái ấy, khuấy đều và để lắng.
Chất gôm trong bột hạt chùm ngây có tác dụng như một chất điện phân đa cực sẽ
thu hút vi trùng và bụi bẩn rồi lắng đọng xuống đáy. Mặt khác các chất có hoạt
tính kháng sinh nói trên cũng tiêu diệt vi trùng và nấm mốc trong nước.
Kết quả cho thấy rằng với bột từ hạt
chùm ngây làm giảm ô nhiễm nguồn nước và giảm số lượng vi khuẩn sau khi sử lý.
Cách này được áp dụng ở Ấn Độ và Châu Phi để lọc nước sông, nước ao và nước
giếng để dùng trong sinh hoạt và ăn uống.
Phương pháp lọc này rất hữu dụng tại các vùng nông thôn của
các nước nghèo..và được áp dụng khá rộng rãi tại Ấn độ (Journal of Water and
Health Số 3-2005).
Tuy nhiên, những chất bổ dưỡng có trong hột Chùm ngây cũng
có thể là nguồn thức ăn cho một số vi sinh vật phát triển sau lắng lọc! Do đó
theo kinh nghiệm ở Việt Nam nên dùng phèn chua để làm trong nước, sau khi lắng
cặn cho nước vào túi nylon và phơi nắng trong 1 ngày thì có nước sạch để dùng,
cách này tiện lợi hơn.
Một số bài thuốc từ cây chùm ngây
1-Trị u xơ tiền
liệt tuyến: Dùng 100g rễ Chùm ngây tươi và
80g lá Trinh nữ hoàng cung tươi (hoặc dùng rễ Chùm ngây khô 30g và lá trinh nữ
hoàng cung khô 20g). Đem nấu với 2 lít nước, nấu còn lại nửa lít thuốc. Uống ấm
3 lần trong ngày. (theo Lương y Nguyễn Công Đức -ĐH Y Dược, TP.HCM).
2-Trị suy nhược cơ
thể, suy nhược thần kinh, giúp ổn định huyết áp, ổn định đường huyết, bảo vệ
gan: Mỗi ngày dùng 150g lá Chùm ngây non
rửa sạch, giã nát, thêm 300ml nước sạch vắt lấy nước cốt (hoặc dùng máy xay
sinh tố), thêm 2 muỗng canh mật ong trộn đều, chia uống 3 lần dùng trong ngày.
(theo Lương y Nguyễn Công Đức- ĐH Y Dược, TP.HCM).
3-Trị tăng
cholesterol, tăng lipid máu, tăng triglycerid, hoặc làm giảm acid uric, ngăn ngừa
sỏi oxalate: Mỗi ngày dùng 100gr rễ chùm
ngây tươi (hoặc 30gr khô) rửa sạch, nấu với 1 lít nước, nấu sôi 15 phút, để
uống cả ngày. (theo Lương y Nguyễn Công Đức- ĐH Y Dược, TP.HCM).
4-Công dụng ngừa
thai: Đây là loại cây được đồng bào người
Raglay dùng làm thuốc ngừa thai - cứ 5 ngày thì dùng 2 nắm rễ cây chùm ngây còn
tươi (150g) rửa sạch băm nhỏ nấu với 2 lít nước, nấu còn nửa lít thuốc, chia
uống 2 lần trong ngày. Phụ nữ Raglay trong tuổi sinh đẻ nếu uống nước sắc rễ
chùm ngây thì sẽ không có thai. Tuy nhiên, cần lưu ý, phụ nữ đang có thai thì
không được dùng cây chùm ngây. (theo Lương y Nguyễn Công Đức- ĐH Y Dược,
TP.HCM).
5-Chùm ngây dùng
để lọc nước: Lấy 2 trái chùm ngây tươi đã
có hột già, lấy hột giã nát, trộn đều 5 phút với 3 lít nước đục, để lắng 2 giờ
thì có nước trong dùng được. (theo Lương y Nguyễn Công Đức- ĐH Y Dược,
TP.HCM).
Trồng cây chùm ngây
Cây chùm ngây hiện được trồng trên 80 quốc gia trên thế giới, những quốc
gia tiên tiến đã sử dụng rộng rãi và đa dạng trong công nghệ dược phẩm, mỹ
phẩm, nước giải khát dinh dưỡng và thực phẩm chức năng. Các quốc gia đang phát
triển sử dụng chùm ngây như loài cây diệu kỳ vừa là loài rau sạch giàu dinh
dưỡng kết hợp chữa những bịnh hiểm nghèo, bệnh thông thường và thực phẩm dinh
dưỡng.
Các bộ phận của cây chứa nhiều khoáng chất quan trọng, và là
một nguồn cung cấp chất đạm, vitamins, beta-carotene, acid amin và nhiều hợp
chất phenolics. Cây Chùm Ngây cung cấp một hỗn hợp pha trộn nhiều hợp chất như
zeatin, quercetin, beta-sitosterol caffeoylquinic acid và kaempferol, rất hiếm
gặp tại các loài cây khác.
-Ấn Độ là nước trồng cây chùm ngây lớn
nhất thế giới với diện tích đến 38.000 ha. Ngoài việc dùng lá làm rau và thức
ăn gia súc và làm thuốc thảo mộc dùng trong dân gian, hàng năm cón sản xuất từ
1,1 đến 1,3 triệu tấn quả khô để dùng trong công nghiệp và xuất khẩu.
Những nơi trồng cây chùm ngây nhiều
nhất ở Ấn Độ là Tiểu bang Andhra Pradesh
(15.665 ha), Tiểu bang Karnataka (10.280 ha), Tiểu bang Tamil Nadu (7.408 ha)
và ở các Tiểu bang khác (4.613 ha).
-Từ Ấn Độ, cây chùm ngây được giới
thiệu và phát triển ở Sri
Lanka .
-Ở Thái Lan cây chùm ngây được rồng phổ
biến để làm hàng rào, lá dùng để làm rau và các bộ phận của cây được dùng làm
thuốc.
-Ở Mỹ cây chùm ngây được du nhập và
trồng ở các bang phía Nam có
khí hậu nóng và đang được trồng thương mại ở Hawaii .
-Ở Đài Loan cây chùm ngây được Tổ chức
FAO giới thiệu về Trung tâm Rau quà Á Châu và giao nhiệm vụ nghiên cứu, phát
triển nhằm chống suy dinh dưỡng và xóa đói giảm nghèo ở các nước đang phát
triển.
-Ở Philippines ,
trong năm 2007, Thượng nghị sĩ Loren Legarda của Philippines vận động cho việc phổ
biến trồng cây chùm ngây. Bà đã yêu cầu Chính phủ đầu tư khuyến khích nhân dân
trồng và chế biến cây chùm ngây. Trong đó có món lá cây chùm ngây polvoron (một
loại sữa bột ăn nhẹ), nhiên liệu sinh học , và tinh dầu.
Cây chùm ngây được nhân giống bằng cách
trồng cây cao đến 1-2 m cắt cành lá,
thời gian trồng tốt nhất là từ tháng 6 đến tháng 8. Sau khi trồng 6-8 tháng cây
bắt đầu ra nụ ra nụ hoa. Cũng có thể gieo bằng hạt với mật độ vườn ươm khoảng
20-25 cm/cây. Cây dể trồng, chịu dựng được khô hạn, có thể gieo hạt quanh năm.
Tố nhất nên gieo hạt vào đầu mùa mưa và trồng cây vào đầu mùa mưa năm sau.
-Hiện nay cây chùm ngây cũng được trồng
rộng rãi ở Châu Phi, Campuchia, Nepal, Indonesia, Malaysia, Mexico, Trung và
Nam Mỹ, và Sri Lanka.
-Ở Việt
Nam
cây chùm ngây có trong tự nhiên từ lâu đời. Tại vùng núi ở Tịnh Biên, Tri Tôn
(An Giang) có nhà chỉ trồng nó làm hàng rào. Nay bà con mới biết tới các công
dụng của nó. Huyện đã xây dựng một dự án để bảo tồn và phát triển cây chùm
ngây. Họ dành tới 3.000m2 để làm vườn nhân giống.
Chùm ngây là loại cây thân gỗ. Nó có thể cao tới 5-6m, cây
rất dễ trồng, dễ sống. Nó không kén đất, ít tốn phân. Ta có thể trồng quanh
hàng rào, trồng ở những bãi đất trống, trồng dọc đường đi... Trồng khoảng 4-5
tháng là bắt đầu có thể thu lá. Lá bán rất đắt, 12.000 đồng/mớ.
Hầu như chưa thấy loài sâu bọ nào phá hoại chúng. Nó chịu
hạn rất giỏi. Vì vậy, có thể trồng nó trên cả các gò, đồi, các vùng đất xấu.
Chỉ có điều, nó chịu úng kém.
Hiện nay cây chùm ngây được trồng rải
rác trong khắp cả nước và đang được Bộ Nông nghiệp khuyến khích trồng như một
loại rau sạch giàu dinh dưỡng.
Ở phía Bắc đã có nơi tiến hành trồng chùm ngây. Công ty
Intracom là một đơn vị xây dựng nhưng cũng mở thêm hướng sản xuất nông nghiệp.
Họ trồng rau sạch, trong đó có cây chùm ngây. Rau bán rất chạy.
Vậy sao bà con ta không trồng chùm ngây? Hãy liên hệ ngay
với các cơ sở để có giống và có sự trợ giúp về kỹ thuật.
Miền Bắc liên hệ: 04.85856168.
Miền Nam
liên hệ: 01669282986, 0935146069, 0987198591.
Nguồn: Chuyên gia Nguyễn Lân Hùng (Theo báo Dân Việt).
Kết luận
Cây Chùm Ngây vừa là nguồn dược
liệu vừa là nguồn thực phẩm phong phú và quí hiếm. Lá, hoa, trái, thân , vỏ, rễ
của cây chứa chất khoáng , chất đạm, vitamins, beta-carotene, acid amin và
nhiều họp chất khác. Ngoài khả năng thanh lọc nước và giá trị dinh dưỡng cao,
cây moringa còn là nguồn dược thảo quan trọng trong việc ngăn ngừa và điều trị
rất nhiều căn bệnh , các bộ phận của cây có nhũng hoạt tính như kích thích hoạt
động của tim và hệ tuần hoàn, hoạt tính chống ung bướu, hạ nhiệt, chống kinh
phong, chống sưng viêm, trị ung loét, chống co giật, lợi tiểu hạ huyết áp, hạ
cholesterol, chống oxy hóa, tri tiểu đường , bảo vệ gan, kháng sinh và chống
nấm… cây đã được dùng để trị nhiều bệnh trong y học dân gian tại nhiều nước
trong vùng Nam Á.
Xin trích lời của Nguyễn
Thành Hà-Cty Văn Kiếm Nhân
“Rõ ràng cây chùm ngây, không chỉ là giải pháp độ sinh cho
thế giới thứ ba như tổ chức lương thực thế giới (Food and Argriculture
Organization) đề quyết mà còn là giải pháp ưu việt cho Việt nam chúng ta, vấn
đề là làm thế nào để mọi người dân Việt Nam biết được giá trị của nó, để người
nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, để cây chùm ngây trở thành thực đơn hàng
ngày trong mỗi bữa ăn , để những nhà sản xuất, chế biến dược phẩm của chúng ta
không chỉ có mỗi một lựa chọn là mua nguyên liệu nước ngoài về dập thành viên
rồi bán, và làm thế nào để phổ biến những sản phẩm của cây chùm ngây rộng khắp?
tôi nghĩ, trước tiên , không ai khác hơn là các cơ quan truyền thông, báo đài,
các nhà nghiên cứu, viện dinh dưỡng , cơ quan y tế và lương thực, cơ quan chức
năng chuyên nghành, nhà sản xuất kinh doanh, dĩ nhiên không thể thiếu vai trò
của các trường học….
Sẽ hết sức vô cảm, nếu chúng ta tiếp tục để những bà mẹ ốm
yếu thiếu sữa, những trẻ em lớn lên trong còi cọc, những bệnh nhân, những người
nghèo lây lất, bên cạnh cây chùm ngây, nguồn dược liệu và dinh dưỡng phong phú
đã có từ lâu trên nhiều vùng của đất nước chúng ta”.
Tài liệu cần đọc
thêm
Kỹ sư Hồ Đình Hải
Tài liệu
tham khảo
9-http://www.suganhealthproducts.com/faq.html
10-http://www.webtretho.com/forum/f119/cay-chum-ngay-vi-thuoc-qui/
Xem Video: Hội thảo về cây chùm ngây ở Việt Nam
Xem Video: Trồng cây chùm ngây
10-http://www.webtretho.com/forum/f119/cay-chum-ngay-vi-thuoc-qui/
Xem Video: Hội thảo về cây chùm ngây ở Việt Nam
Xem Video: Trồng cây chùm ngây