NẤM LINH CHI
-Tên gọi khác: Nấm Linh chi đỏ,
Tiên
thảo, Nấm trường thọ, Vạn niên
nhung.
-Tên tiêng Anh: Lingzhi mushroom
Nấm Linh chi
Phân loại nấm
Giới (regnum):
|
Nấm (Fungi).
|
Ngành (phylum):
|
Nấm đảm (Basidiomycota).
|
Lớp (class):
|
Nấm đảm (Agaricomycetes)
|
Bộ (ordo):
|
Nấm đa tầng (Polyporales).
|
Họ (familia):
|
Nấm lim (Ganodermataceae).
|
Chi (genus):
|
Nấm Linh chi (Ganoderma).
|
Loài (species):
|
Nấm linh chi đỏ-Ganoderma lucidum
|
Các loài tương
cận
Chi nấm Linh chi (Ganoderma) bao gồm khoảng 80 loài nấm phân bố rộng trên
vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới trên khắp thế giới. Loài nấm này sống
hoại sinh trên vỏ cây đại thụ sần sùi hay trên thân cây gổ đã chết, trong tự
nhiên chúng sống trong các rừng rậm nhiệt đới cho đến rừng cây lá kim ở vùng ôn
đới.
Ở Châu Á tên nấm Linh Chi có một lịch sử trên
2.000 năm. Tên
nấm Linh Chi ở Trung
Quốc lần đầu tiên được ghi lại trong triều
đại Đông Hán (25-220 năm trước Công nguyên). Theo nghĩa bóng của tiếng Hán thì “Linh chi” là thực vật
thiêng liêng có tuổi thọ cao." Hay “thực vật tốt lành".
Ở Trung Quốc nấm
Linh chi là các loài nấm gỗ mọc hoang ở những vùng núi cao và lạnh ở các tỉnh
Tứ Xuyên, Quảng Tây, Quảng Ðông.
Sách Bản thảo cương mục (in năm
1595) của Lý Thời Trân, đại danh y Trung Quốc đã phân loại linh chi theo màu
sắc thành 6 loại, mỗi loại có công dụng chữa bệnh khác nhau:
- Loại có màu vàng gọi là Hoàng
chi hoặc Kim chi.
- Loại có màu xanh gọi là Thanh
chi.
- Loại có màu hồng, màu đỏ gọi là
Hồng chi hay Ðơn chi hoặc Xích chi.
- Loại có màu trắng gọi là Bạch
chi hay Ngọc chi.
- Loại có màu đen gọi là Huyền
chi hay Hắc chi.
- Loại có màu tím gọi là Tử chi.
Trong thực tế nấm linh chi có rất nhiều loài khác nhau, sự phân biệt trên
cũng chỉ dựa vào cảm quan về màu sắc, chưa dựa trên cơ sở khoa học nào.
Chi nấm Linh chi (Ganodermataceae) được đặt tên
khoa học bởi Karsten vào
năm 1881. Các
loài của Họ nấm Linh chi truyền thống khó phân loại vì thiếu các đặc điểm hình
thái đáng tin cậy, dư thừa các từ đồng nghĩa, và lạm dụng tên rộng rãi.
Vào năm 1905, nhà nấm học Mỹ William Murrill đề nghị tách riêng các
loài nấm linh chi khổng lồ thành Chi Tomophagus để chỉ các loài
nấm Linh chi có hình dạng khác các loài nấm linh chi
khác. Sau
này phân tích phát sinh loài chứng minh sự tách chi trên là đúng.
Cho đến gần đây, giống nấm Linh chi được chia
thành hai nhóm:
-Nhóm nấm linh chi có bề mặt mũ sáng bóng (Ganoderma lucidum).
-Nhóm nấm linh chi có bề mặt mũ sần sùi (Ganoderma applanatum ).
Hiện nay phân tích Hệ thống sinh bằng cách sử dụng thông tin
trình tự DNA có nguồn gốc từ rDNA ty thể SSU, đã làm rõ về mối quan hệ giữa các loài nấm
Linh Chi.
Giống nấm Linh chi bây giờ có thể được
phân chia thành 6 nhóm đơn ngành :
-Nhóm nấm linh chi khổng lồ G. khổng lồ .
-Nhóm nấm linh chi G. applanatum .
-Nhóm nấm linh chi G. tsugae .
-Nhóm nấm linh chi G.
meredithiae.
-Nhóm nấm linh chi G. resinaceum .
Sau đây là các
loài quan trọng nhất trong Chi nấm Linh chi:
-Ganoderma
applanatum - Còn
được gọi là ốc xà cừ của nghệ sĩ.
Ganoderma lucidum - Còn được gọi là Reishi hoặc Linh Chi.
Nấm Linh Chi
multipileum – Nấm G. lucidum trong vùng nhiệt đới châu Á.
Ganoderma
philippii - Một
tác nhân gây bệnh thực vật.
Nấm Linh Chi
pseudoferreum – Gây
thối rể cây ca cao, cà phê, cao su và cây
chè.
Nấm Linh Chi tsugae - Phát
triển trên cây
lá kim ,
đặc biệt là cây
độc cần.
Phân bố
Nấm linh chi
phân bố rộng rãi ở vùng rừng rậm nhiệt đới và cận nhiết đới ở Châu Á, Châu Phi
và Châu Mỹ . Được khai thác lâu đời nhất ở Trung quốc, Việt Nam và Ấn Độ. Hiện
được trồng theo công nghệ thâm canh ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và bắt đầu
trồng ở một số nước Đông Nam Á và Nam Mỹ.
Nấm linh chi (Ganoderma lucidum ) có hai hình thức phát triển, một là nấm không cuống được tìm thấy vùng ôn đới ở
Bắc Mỹ và hai là nấm có cuống dài và dẹp được tìm thấy ở vùng nhiệt đới. Tuy nhiên do môi trường, có dạng trung
gian giữa hai dạng nêu trên.
Mô tả
Nấm Linh Chi được sử dụng rộng rãi trong y học
cổ truyền ở Châu Á, đây là một Chi nấm rất quan trọng về kinh tế. Đặc điểm để phân
biệt nấm linh chi với các loài khác là trên mũ nấm có hai vách, bào tử màu đỏ
tươi hình thành phía bên trong giữa hai vách.
Nấm Linh chi có tên khoa học là Ganoderma, phát xuất từ tiếng Hy lạp: ganos "độ sáng, lấp lánh" và derma
"da", có nghĩa là các loài nấm có màu da sáng sủa.
Tuy nhiên trong hực tế có nhiều loài khác nhau với
nhiều màu sắc khác nhau.
Linh Chi là loại nấm hoại sinh trên gỗ mục nát với với tính phân bố quốc tế, và có
thể phát triển trên gổ cả hai loài cây lá kim và gỗ cứng. Khuẩn ty là những sợi nấm trắng, có enzyme để phá vỡ các thành phần gỗ như lignin và cellulose .
Hiện đã có nghiên cứu để khai thác sức mạnh của
các enzym này làm suy giảm gỗ cho các ứng dụng công nghiệp như biopulping hoặc xử lý
sinh học.
Thành phần hóa học
Trong nấm
linh chi (Ganoderma lucidum ) không có nhiều chất
dinh dưỡng cho calo như các loài nấm ăn khác nhưng nó có các dược liệu quý giá
mà ở các loài nấm ăn khác có rất ít. Nấm linh chi sản xuất một nhóm triterpenes , được gọi là ganoderic acids, trong đó có một cấu
trúc phân tử tương tự như steroid hormone .
Nó cũng chứa các hợp chất khác bao gồm
các polysaccharides như beta-glucan , coumarin , mannitol , và alkaloids .
Có nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới đã
định danh được các hoạt chất và xác định tác dụng dược lý của nấm linh chi như:
Germanium, acid ganoderic, acid ganodermic, acid oleic, ganodosteron,
ganoderans, adenosin, beta-D-glucan,
(đặc biệt trong nấm Linh chi, có hàm
lượng germanium cao hơn trong nhân sâm đến 5 - 8 lần). Các nhà khoa học Việt
Nam tìm thấy trong nấm Linh chi có chứa 21 nguyên tố vi lượng cần thiết cho sự
vận hành và chuyển hóa của cơ thể như: đồng, sắt, kalium, magnesium, natrium,
calcium
Công dụng
a-Nấm Linh chi được dùng làm rau gia vị cao cấp
Thực sự trong nấm linh chi không có
nhiều chất dinh dưỡng, nấm có độ dai, cứng và nhám, có vị đắng rất khó ăn. Tuy
nhiên người ta vẩn dùng nấm linh chi trong các món nấu cao cấp với hương vị hơi
đắng giống như món thịt dê hầm thuốc bắc.
Việc sử dụng nấm linh chi để nấu thực
phẩm còn mang tính sùng bái theo tâm lý.
b-Nấm linh chi chủ yếu được dùng làm thuốc
+Theo y học cổ truyền Việt Nam: nấm Linh chi có vị nhạt, tính ấm, có tác dụng tư bổ
cường tráng, bổ can chí, an thần, tăng trí nhớ.
+Theo y học cổ truyền Trung Quốc: nấm Linh chi là một loại
thuốc quý, có tác dụng bảo can (bảo vệ gan), giải độc, cường tâm, kiện nảo (bổ
óc), tiêu đờm, lợi niệu, ích vị (bổ dạ dày); gần đây các nhà khoa học Trung
Quốc và Nhật phát hiện nấm linh chi còn có tác dụng phòng và chống ung thư,
chống lão hóa làm tăng tuổi thọ.
Do nấm Linh chi sống trong những điều kiện sinh
thái khác nhau có màu sắc biến đổi khác nhau nên trong y học phương Đông cũng
phân chia chúng ra nhiều loại với những tác dụng y học khác nhau:
-Thanh linh chi (xanh) vị toan bình. Giúp
cho sáng mắt, giúp cho an thần , bổ can khí, nhân thứ, dùng lâu sẽ thấy thân
thể nhẹ nhàng và thoải mái.
-Xích linh chi (đỏ), có vị đắng, ích tâm
khí, chủ vị, tăng trí tuệ.
-Hắc linh chi (đen) ích thận khí, khiến cho
đầu óc sản khoái và tinh tường.
-Bạch linh chi (trắng) ích phế khí, làm trí
nhớ dai.
-Hoàng chi (vàng) ích tì khí, trung hòa, an
thần.
-Tử chi (tím đỏ) bảo thần, làm cứng gân
cốt, ích tinh, da tươi đẹp.
+Theo y học hiện đại Hàn Quốc: cho biết
chỉ có 6 loại nấm Linh Chi được
nghiên cứu tường tận về khả năng trị liệu của chúng, đó là: nấm Linh Chi đỏ,
đen, xanh da trời, trắng, vàng và tím. Trong 6 loại nầy, nấm Linh Chi đen và đỏ
được coi là có tác dụng trị liệu tốt nhất, và được dùng nhiều nhất trên thế
giới hiện nay.
Nấm Linh Chi đỏ được chứng minh là tốt nhất cho
sức khỏe vì nó thúc đẩy sự làm việc của hệ thống miễn dịch, làm tăng sự hoạt
động của cơ thể và chống lão hóa. Nấm Linh Chi đen thường được bán trong các
tiệm thuốc đông dược. Loại nấm nầy có nhiều kích cỡ. Thường các tay nấm trưởng
thành có đường kính 6 inches, nhưng cũng có những tay nấm có đường kính đến 10
inches. Phần lớn các sản phẩm được giới thiệu là “từ thiên nhiên” được làm bằng
nấm Linh Chi đen. Mặc dù được coi như là một dược thảo bổ dưỡng, nấm Linh Chi
đen không có giá trị bằng nấm Linh Chi đỏ vì nó không chứa nhiều
polysaccharides bằng nấm Linh Chi đỏ.
+Theo các nhà nghiên cứu Châu Âu: Ngày nay người ta biết trong nấm Linh chi
có chất germanium giúp tế bào hấp thụ oxy tốt hơn; các chất polysaccharit làm
tăng sự miễn dịch trong cơ thể, làm mạnh gan, diệt tế bào ung thư; acid ganodermic
chống dị ứng, chống viêm, chống khối u , miển
địch (immunotherapeutic) và điều hòa miễn dịch được hỗ trợ bởi các nghiên cứu
về polysaccharides , tecpen , và các hợp chất hoạt tính sinh học phân lập từ quả thể và sợi nấm của loại nấm này.
Nó cũng đã được tìm thấy ức chế tiểu
cầu kết
tập, và huyết áp thấp hơn (thông qua ức chế enzyme chuyển đổi angiotensin), cholesterol và đường
trong máu.
Phòng thí nghiệm nghiên cứu đã cho thấy tác dụng chống Neoplastic của
các chất chiết xuất từ nấm hoặc các hợp chất cô lập đối với một số loại ung
thư ,
bao gồm ung thư biểu mô buồng trứng.Trong một mô hình động vật, Nấm Linh Chi đã
được báo cáo để ngăn chặn di căn ung thư, với tiềm năng so sánh với nấm Lentinan Shiitake .
Các cơ chế mà G. lucidum ảnh
hưởng đến ung thư là chưa biết và họ có thể nhắm mục tiêu các giai đoạn khác
nhau của sự phát triển ung thư: ức chế sự hình thành mạch (hình
thành các mạch máu mới, do khối u gây ra, tạo ra để cung cấp chất dinh dưỡng
cho khối u) qua trung gian cytokine , cytoxicity , ức
chế sự di cư của các tế bào ung thư và di căn , và
gây cảm ứng và tăng cường apoptosis của
các tế bào khối u .
Tuy nhiên, chiết xuất G.
lucidum đã
được sử dụng trong dược phẩm thương mại như MC-S cho tế bào ung thư phổ biến vũ khí đàn
áp và di cư.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng ganoderic acid có
một số tác dụng bảo vệ chống lại tổn thương gan do virus và các tác nhân độc
hại khác ở chuột, cho thấy một lợi ích tiềm năng của hợp chất này trong điều
trị bệnh
gan ở
người,và sterol có nguồn
gốc từ Linh Chi ức
chế lanosterol
14α- demethylase hoạt động trong sinh tổng hợp cholesterol . Hợp chất Linh Chi ức
chế 5-alpha reductase hoạt
động trong quá trình sinh tổng hợp của dihydrotestosterone .
Bên cạnh tác động về sinh lý học động
vật có vú, Nấm Linh Chi được báo cáo là có các hoạt động chống
vi khuẩn trực tiếp như Aspergillus niger , Bacillus cereus , Candida albicans , và Escherichia coli và chống virus như HSV-1 , HSV-2 , vi
rút cúm , mụn nước viêm miệng . nấm Linh Chi được báo cáo cho triển lãm đặc tính
chống (theo
nguồn của RR
Paterson, Lindequist et al.)
Một số bài thuốc từ nấm linh chi
Theo các tài liệu cổ và những nghiên cứu khoa học
gần đây, có thể tóm tắt tác dụng chủ yếu của Linh chi như sau:
1-Đối với hệ tim mạch: Nấm Linh chi có tác dụng điều hòa, ổn định huyết áp. Khi dùng cho
người huyết áp cao, nấm Linh chi làm hạ huyết áp, dùng lâu thì huyết áp ổn
định.
-Với người suy
nhược, huyết áp thấp, nấm Linh chi có tác dụng nâng huyết áp nhờ vào khả năng
cải thiện, chuyển hóa dinh dưỡng.
-Nấm Linh chi
làm giảm cholesterol toàn phần, làm tăng nhóm lipoprotein tỷ trọng cao trong
máu, dùng tốt với những người bị xơ mỡ động mạch.
-Nấm Linh chi
làm giảm khả năng kết tập tiểu cầu nên dùng được với những trường hợp co thắt
mạch vành, nhờ vậy mà giảm được cơn đau thắt tim.
Kết quả nghiên
cứu trên thực nghiệm đã chứng tỏ Linh chi có tác dụng cải thiện công năng tim
mạch, tăng lưu lượng máu tim và động mạch vành, tăng tuần hoàn mao mạch tim.
2-Với các bệnh hô hấp: Nấm Linh chi
được dùng để điều trị viêm phế quản dị ứng, hen phế quản, hiệu quả có thể đạt
tới 80%.
3-Với các bệnh gan mật: Linh chi có tác
dụng tốt tới các bệnh gan mạn tính nhờ vào tác dụng nâng cao chức năng gan.
Theo các nghiên cứu của PGS. TS. Trịnh Xuân Hậu (ĐH Khoa Học Tự Nhiên - ĐH Quốc
Gia Hà Nội) và TS. Lê Xuân Thám (Trung tâm Kỹ thuật Hạt nhân TP.HCM), nấm Linh
Chi nuôi trồng tại Việt Nam có tác dụng bảo vệ phóng xạ khá tốt trên thực
nghiệm.Với bệnh tiểu đường: Linh chi có khả năng ổn định đường huyết ở những
người bị bệnh đái tháo đường do trợ giúp quá trình tạo glycogen, tăng cường oxy
hóa acid béo, giảm tiêu hao glucose.
4-Với bệnh thấp khớp: Bác sĩ Wilkinson
(Anh) cho biết nấm Linh chi tỏ ra rất hiệu quả trong điều trị viêm khớp nhờ các
tác nhân chống viêm tên là ftriturpinoids, có tác dụng tương tự corticoid.
5-Với bệnh ung thư: Các nhà nghiên cứu
Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan đã thực hiện nhiều công trình chứng minh nấm
Linh chi có đặc tính tăng cường hệ miễn dịch của cơ thể. Theo kết quả nghiên
cứu trên bệnh nhân ung thư dạ dày, tử cung,... của Trung tâm điều trị ung thư
(Tokyo - Nhật Bản), tỷ lệ người bệnh dùng nấm Linh chi sống thêm 5 năm cao hơn
những người không dùng nấm.
Nghiên cứu của
các nhà khoa học cho thấy Linh chi chứa một số hoạt chất như: acid amin, nguyên
tố vi lượng, ergosterol, lyzozym, protease, acid hữu cơ, alkaloid,...
Do nguồn nấm
Linh chi hoang dại thường không ổn định về hoạt chất và khả năng cung cấp, từ
năm 1970, các nhà khoa học Nhật Bản thành công trong việc nuôi trồng Linh chi
trong môi trường nhân tạo và từ đó kỹ thuật này liên tục được cải tiến và dần
đạt đến quy mô công nghiệp. Sau đó, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông
cũng bắt đầu tăng cường sản xuất Linh chi và mở rộng sử dụng dược liệu này từ
thập niên 1980 trở lại đây.
Tại Việt Nam,
chúng ta cũng đã nuôi trồng được Linh chi tại một số trung tâm khoa học như:
Học Viện Quân Y (chi nhánh phía Nam - TS. Lê Võ Định Tường- 1995); Đại học Khoa
Học Tự Nhiên (Đại Học Quốc Gia Hà Nội - PGS. TS Nguyễn Thị Chính, Trương Thị
Hòa - 1998); Trung tâm nghiên cứu Linh chi và nấm dược liệu (81/1 Hà Huy Giáp,
phường Thạnh Lộc, quận 12, TP.HCM),... Nhiều xí nghiệp, công ty đã cho ra đời
các sản phẩm từ nguyên liệu Linh chi Việt Nam như: Mekophar; OPC, Fitopharma
(Bình Dương); Công ty Dược Lâm Đồng,... Các sản phẩm này có thể là Linh chi
nguyên chất hoặc phối hợp với Nhân sâm, Tam thất và một số dược liệu khác, đồng
thời cũng khá đa dạng về chủng loại: viên nang, trà túi lọc, rượu,... để đáp
ứng với thị hiếu của người tiêu dùng. Bạn có thể mua các chế phẩm Linh chi này
tại các nhà thuốc, siêu thị.
Nếu muốn tự chế
biến, bạn cũng có thể mua nấm Linh chi tại các cửa hàng Đông dược và làm theo
một số cách như sau:
1-Linh chi ngâm rượu: xắt mỏng nấm Linh
chi, ngâm với rượu 40 - 450C khoảng 3 tuần. Khi dùng, uống 2 lần mỗi ngày, mỗi
lần khoảng 1 chén nhỏ.
2-Linh chi nấu nước uống: lấy khoảng 4 -
12g Linh chi đã xắt thành lát mỏng, thêm 3 chén nước sạch, đun to lửa cho đến
sôi, hạ bớt lửa để sôi riu riu đến khi còn khoảng 1 chén nước. Chiết nước riêng
ra. Bã còn lại thêm nước, nấu thêm 2 lần nữa. Sau đó trộn chung cả 3 dịch sắc,
chia làm 3 lần uống mỗi ngày.
3-Trà Linh chi:
sấy nấm Linh chi, tán nghiền thành bột. Mỗi lần dùng, lấy khoảng 2 - 4g, thêm
200ml nước sôi, hãm khoảng 10 phút rồi uống. (theoTS. NGUYỄN PHƯƠNG DUNG -Khoa
Y học cổ truyền, ĐH Y dược TP.HCM).
Kỹ sư Hồ Đình Hải
Kỹ sư Hồ Đình Hải