RAU MÁ
Cây rau má (Centella asiatica)
-Tên gọi khác: Tích tuyết thảo, lôi công thảo , liên tiền thảo.
-Tên tiếng Anh: Centella.
-Tên khoa học: Centella asiatica (L.) Urban.
-Tên đồng nghĩa: Hydrocotyle asiatica L ,
Trisanthus cochinchinensis Lour.
1-Phân loại khoa học
Giới (regnum):
|
Thực vật (Plantae).
|
Bộ (ordo):
|
Hoa tán (Apiales).
|
Họ (familia):
|
Hoa
tán (Apiaceae).
|
Phân họ (subfamilia):
|
Mackinlayoideae
|
Chi (genus):
|
Rau má
(Centella).
|
Loài (species):
|
Centella asiatica (L.) Urban
|
2-Phân bố
Rau má hay tích tuyết thảo hoặc lôi công thảo hoặc liên tiền thảo (danh
pháp khoa học: Centella
asiatica) là một loài cây thân thảo một năm trong phân
họ Mackinlayoideae của họ Hoa tán (Apiaceae hay Umbelliferae), có nguồn gốc Australia, các
đảo Thái Bình Dương, New Guinea, Melanesia, Malesia và Châu Á. Chi
Rau má có 40 loài.
Tên khoa học đồng nghĩa là Hydrocotyle
asiatica L., Trisanthus cochinchinensis Lour.
Loài thực vật nầy mọc lan trên mặt đất có lá trông giống như
những đồng tiền tròn được xếp nối tiếp nhau nên còn gọi là Liên tiền thảo.
Rau má là một loài rau dại ăn được thường mọc ở những
nơi ẩm ướt như thung lủng, bờ mương thuộc những vùng nhiệt đới như Việt nam,
Lào, Campuchia, Indonesia, Malaysia, Srilanka, Ấn độ, Pakistan, Madagascar…
Ở Việt Nam có nhiều loài rau má mọc hoang dại bên dưới các tán
lá của vườn cây hoặc theo bờ ruộng. Vài giống được thuần hóa để trồng ở những
vùng rau chuyên canh thuộc tỉnh Tiền Giang và TP Hồ Chí Minh. Ngoài ra giống
rau má Tây Phi cũng được nhập nội và trồng ở một số tỉnh vùng ĐBSCL.
3-Mô tả
-Thân cây rau má gầy và nhẵn, là loại thân bò lan trên mặt
đất, màu xanh lục hay lục ánh đỏ.
-Rễ gồm có rể gốc dạng chùm và các rể đốt mọc ở đốt thân ngay gốc
lá. Rể có màu trắng kem và được che phủ bằng các lông tơ ở rễ.
-Lá có hình tròn hoặc hình thận, màu xanh với cuống dài mọc ra từ gốc hoặc từ
các đốt thân và phần đỉnh lá tròn, kết cấu trơn nhẵn với các gân lá dạng lưới hình
chân vịt. Lá có mép khía tai bèo. Các lá mọc ra từ cuống dài khoảng
5-20 cm.
-Hoa rau má có màu từ
trắng, ánh hồng tới đỏ, mọc thành các tán nhỏ, tròn gần mặt đất. Mỗi hoa được
bao phủ một phần trong 2 lá bắc màu xanh. Các hoa lưỡng tính này khá nhỏ (nhỏ
hơn 3 mm), với 5-6 thùy tràng hoa. Hoa có 5 nhị và 2 vòi nhụy.
Hoa rau má
-Quả có hình mắt lưới dày dặc, đây là điểm phân biệt nó với các
loài trong chi Hydrocotyle có quả với bề mặt trơn, sọc hay giống như mụn cơm.
Quả của nó chín sau 3 tháng và toàn bộ cây, bao gồm cả rễ, được thu hái thủ
công.
-Hạt: Cây rau má có hạt để phát tán, trong tự nhiên cây sinh sản
vô tính bằng nhảy chồi là chủ yếu.
4-Thành phần hóa học
Tuỳ theo khu vực trồng hoặc mùa thu hoạch tỷ lệ các hoạt
chất có thể sai biệt. Thành phần của rau má bao gồm những chất sau: beta
caroten, sterols, saponins, alkaloids, flavonols, saccharids, vôi (calcium),
sắt (iron), ma nhê (magnesium), măng gan (manganese), lân (phosphorus), kali
(potassium), kẽm (zinc), các loại vitamins B1, B2, B3, C và K.
Theo tài liệu của Viện vệ sinh dịch tể Việt Nam -1972, trong cây rau
má có các thành phần như sau: nước 82,2 %; protein 3,2%; glucid 1,8%; cellulose
4,5%; khoáng toàn phần 2,3%. Trong đó Ca 29mg%, P 2,4mg%; các vitamin gồm;
vitamin C 37mg%. Rau má cung cấp cho cơ thể 21 calo/100g rau tươi.
5-Công dụng
a-Dùng làm rau
Ở Việt Nam ,
rau má được dùng như một loại rau sạch với nhiều cách chế biến:
1-Dùng làm rau
sống: Đọt non, lá cả cuống rau má được dùng
làm rau ăn sống như một dạng rau ghém riêng hoặc dùng chung với một số rau rừng
khác. Rau má tươi được chấm với mắm kho, thịt, cá kho, tương, chao…Rau má tươi còn được dùng để ăn với cháo và nhúng lẩu.
2-Dùng làm rau
luộc: Thân lá rau má luộc khi ăn cơm chấm
với các loại nước cá, thịt kho.
3-Dùng làm rau
xào: Thân, lá rau má non dùng xào với thịt,
hải sản.
4-Dùng nấu canh
rau:Rau má nấu canh với cá đồng, thịt bầm,
tôm, cua…
b-Dùng nước rau má như một loại thức uống giải khát
Nước ép rau má là một cách sử dụng rau má đơn giản và thông
dụng nhất. Nước ép rau má tươi có đầy đủ các hoạt chất dinh dưỡng và dược
liệu. Mỗi người, mỗi ngày có thể dùng từ 30 đến 40 gam rau má tươi. Lá
rau má mua về rửa sạch, giả hoặc xay nát. Cho thêm một ít nước vào.
Vắt và lọc bỏ xác, thêm vào một ít đường cho dễ uống.
Các tiệm giải khác có bán sinh tố rau má xay với đậu xanh là
thức uống bổ dưỡng.
Nước ép rau má thường dùng ở Việt Nam
c-Rau má được dùng làm thuốc
c-1-Theo truyền
thuyết
-Rau má được cho là đã làm nên sự trường thọ của một võ sư
môn Thái Cực Quyền là Lý Thanh Vân (Trung Quốc). Người ta
nói rằng ông đã sống thọ tới 256 tuổi, một phần là do sử dụng các loại thảo
dược Trung Hoa truyền thống, trong đó có rau má.
-Một câu chuyện dân gian tại Sri Lanka kể lại rằng một vị
vua nổi tiếng trong thế kỷ thứ 10 với tên gọi Aruna đã cho rằng rau má cung cấp
cho ông sức khỏe và sức chịu đựng đủ để thỏa mãn 50 phi tần của mình.
Những huyền thoại nầy có lẽ đã bắt nguồn từ giá trị dưỡng
âm, chống lão hoá và làm tăng cường hệ miển dịch của những hoạt chất có trong
rau má.
c-2-Theo y học cổ
truyền phương Đông
Nền y học cỗ truyền Trung quốc , Ấn Độ cũng như y học dân
gian Việt Nam đều có truyền thống sử dụng rau má làm làm thức ăn hoặc làm thuốc
từ lâu đời.
-Theo Trung y,
rau má có tính hàn (lạnh), tân (cay), khổ (đắng). Khi ăn ở dạng tươi như một
loại rau, người ta cho rằng nó giúp cho việc duy trì sự trẻ trung. Nước sắc từ
lá rau má được coi là có tác dụng hạ huyết áp. Loại nước sắc này cũng được coi
là một loại thuốc bổ dưỡng để có sức khỏe tốt (tăng trí nhớ, thị lực). Loại
thuốc đắp từ lá cũng được dùng để điều trị những chỗ đau, hạ sốt. Nó còn được
dùng trong điều trị các chứng phù; viêm thanh quản, tĩnh mạch, phế quản; các
bệnh trĩ, phong, eczema hay vẩy nến; giải ngộ độc sắn và lợi tiểu.
-Ở Ấn Độ, rau má
còn được gọi là Brahmi hàm
nghĩa một loại dược thảo có thể giúp con người tiến đến sự hoà hợp với tâm thức
vũ trụ (knowledge of the Supreme Reality). Do đó, rau má thường có trong
khẩu phần ăn của những vị thiền sư, những nhà yoga và những nhà thông thái.
-Theo y học cỗ truyền
Việt Nam ,
rau má có vị đắng, hơi ngọt, tính bình, vào Can, Tỳ Vị có tác dụng dưỡng
âm, thanh nhiệt, nhuận gan, giải độc, lợi tiểu. Rau má thường dùng để làm
thuốc bổ dưỡng, sát trùng, chữa thổ huyết, tả lỵ, khí hư, bạch đới, mụn nhọt,
rôm sẩy.
Rau má là một loại rau thông dụng
có tác dụng sát trùng giải độc, thanh nhiệt lương huyết. Ngoài ra, rau má cũng
là một loại dược thảo có tính bổ dưỡng rất cao,có nhiều sinh tố, khoáng chất,
những chất chống oxy hoá, có thể dùng để dưỡng âm, cải thiện trí nhớ, làm chậm
sự lão hoá, cải thiện vi tuần hoàn và chữa nhiều chứng bệnh về da.Trong Đông y rau má thường được phối hợp với đậu đen hoặc mè
đen chế thành hoàn để làm thuốc bổ dưỡng cho trẻ em, người già hoặc người ốm
mới khỏi.
c-3-Theo tây y
Từ những năm 1940, y học hiện đại bắt đầu nghiên cứu những
tác dụng của rau má. Rau má có những hoạt chất thuộc nhóm saponins (còn
được gọi là tripernoids) bao gồm asiaticoside, madecassoside, madecassic acid
và asiatic acid. Hoạt chất asiaticoside đã được ứng dụng trong điều trị
bệnh phong và bệnh lao. Người ta cho rằng trong những bệnh nầy, vi khuẩn
dược bao phủ bởi một màng ngoài giống như sáp khiến cho hệ kháng nhiểm của cơ thể
không thể tiếp cận. Chất asiaticoside trong dịch chiết rau má có thể làm
tan lớp màng bao nầy để hệ thống miển dịch của cơ thể tiêu diệt chúng.
Một vài báo cáo khoa học cho thấy khả năng của rau má trong
việc hỗ trợ làm lành vết thương. Khi điều trị bằng rau má, sự liền sẹo được
kích thích bằng việc sản xuất ra các chất keo loại I. Việc điều trị này cũng
cho thấy sự giảm sút đáng kể của các tác động viêm nhiễm và việc tạo ra các
nguyên bào sợi.
Các nhà thảo mộc học còn cho rằng nó có chứa nhân tố trường
thọ gọi là 'Vitamin X trẻ trung' có tác dụng bổ dưỡng cho não và các tuyến nội tiết và xác nhận rằng
nước chiết từ rau má giúp cải thiện các vấn đề về hệ tuần hoàn và da.
Đối với da, nhiều công trình nghiên cứu và kết quả lâm sàng
đều cho thấy dịch chiết rau má có khả năng kích hoạt các tiến trình sinh học
trong việc phân chia tế bào và tái tạo mô liên kết giúp vết thương chóng lành
và mau lên da non. Hiên nay rau má đã được sử dụng rất đa dạng dưới hình
thức thuốc tiêm, thuốc bột, thuốc mỡ để điều trị tất cả các chứng bệnh về da
như vết bỏng, vết thương do chấn thương, do giải phẩu, cấy ghép da, những vết
lở lâu lành , vết lở do ung thư, bệnh phong, vẩy nến…
Nền y học hiện đại đã chiết xuất lấy hoạt chất từ rau má làm
thuốc chống sẹo lồi, làm vết thương mau lành, giảm bớt chứng giãn tĩnh mạch chi
dưới... Tuy lấy từ rau má nhưng loại thuốc này khá đắt vì phải qua nhiều công
đoạn chế biến khá phức tạp.
Cần lưu ý là các hoạt chất nằm ở trong chất xơ (cellulose)
của rau má, nếu chúng ta chỉ giã vắt lấy nước thì sẽ mất đi các hoạt chất này.
Một số công trình nghiên cứu cho thấy các chất xơ có thể "kéo"
cholesterol ra khỏi cơ thể, vì vậy nếu ăn các loại rau có nhiều chất xơ sẽ giúp
cơ thể đào thải dần lượng cholesterol ra khỏi cơ thể.
Trên thực tế, rau má tác dụng lên hoạt động của hệ
thần kinh trung ương, làm giảm căng thắng tâm lý, tăng cường khả năng tập trung
tư tưởng và giúp cải thiện trí nhớ của người già. Người ta cho rằng dịch
chiết rau má có hiệu quả tốt với bệnh Alzheimer nhờ vào những dẫn xuất của chất
Asiaticoside có khả năng bảo vệ các tế bào thần kinh khỏi tác động của
các độc tố beta-amyloid.
Đối với tuần hoàn huyết, những hoạt chất của rau má có tác
dụng cải thiện vi tuần hoàn ở các tĩnh mạch, mao mạch, bảo vệ lớp áo trong của
thành mạch và làm gia tăng tính đàn hồi của mạch máu. Do đó rau má cũng
thường được dùng trong các chứng tăng áp lực tĩnh mạch ở các chi dưới.
Hiện nay, nhiều khu vực nói tiếng Anh còn lưu truyền câu tục
ngữ khuyến khích dùng rau má “Two
leaves a day keep old age away”(Dùng 2 lá một ngày sẽ giúp bạn xa
lánh tuổi già).Trong những năm gần đây, nhiều phương tiện thông tin đã phổ biến
cách chữa bệnh thấp khớp mãn tính bằng cách ăn 2 lá rau má tươi mỗi ngày.
Một chương trình phóng sự của đài truyền hình số 9 ở Sydney vào tháng 12/2003
cũng cho biết một số người ở Úc đã chữa khỏi bệnh thấp khớp bằng cách
nầy. Phương pháp nầy phát xuất từ quyển sách “Arthritis and Paradoxycal Pennywort” (Bệnh thấp khớp và lá rau
má) của ông Russ Maslen. Ông đã học được kinh nghiệm chữa bệnh nầy từ một
nông dân ở Brunswick Valley (Úc) vào khoảng năm 1989 khi ông đang tiến hành xây
dựng và quản lý công viên bảo tồn di sản thiên nhiên ở vùng nầy. Sau đó
chính ông đã hướng dẫn vợ ông tên là Beryl chữa khỏi chứng sưng đau các khớp
xương ở bàn tay. Ông nói “Mỗi
ngày chỉ cần nhai và nuốt 2 lá rau má liên tục , chỉ 2 lá chớ không phải một
hay ba lá , thì một thời gian sau sẽ có thể chữa khỏi hoặc làm giảm bớt bệnh
thấp khớp”.
Đơn giản đến khó tin! Phải chăng hiệu quả chữa
bệnh ở đây là do ảnh hưởng của rau má hoặc những dẫn xuất của nó trong
tác dụng chống viêm, chống oxy hoá hoặc tăng cường hệ miển dịch của cơ
thể? Hy vọng nhiều năm sau khoa học sẽ làm sáng tỏ điều nầy. Điều
cần lưu ý trong việc dùng rau má để chữa bệnh thấp khớp là không được dùng quá
liều lượng cần thiết. Dùng bao nhiêu lá phải nằm trong giới hạn dung nạp
và chuyển hoá của Tỳ vị.
Mặc dù rau má không độc nhưng lại có tính “hàn” nên có thể làm tăng tính “thấp” trong bệnh thấp khớp làm bệnh nặng
thêm. Ngược lại, nếu chỉ dùng vài lá mỗi ngày, ai cũng có thể dùng và
dùng lâu dài mà không sợ có phản ứng phụ.
6-Một số bài thuốc đông y từ cây rau má
1-Toa căn bản gồm
rau má và các cây thuốc nam khác:
Toa căn bản ra đời vào khoảng năm 1950 do cụ Võ văn Hưng,
một lương y giàu kinh nghiêm ở miền Đông Nam bộ soạn. Sau đó toa căn
bản được Bác sĩ Nguyển văn Hưởng, Bộ trưởng Bộ Y tế thời bấy giờ hưởng ứng và
khuyến khích sử dụng.
Toa căn bản gồm 10 vị
là toa thuốc rất quen thuộc ở các Bệnh viện, trạm y tế từ bộ đội đến nhân dân,
đã góp phần rất lớn trong việc bảo vệ sức khoẻ nhân dân trong suốt 2 thời kỳ
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Toa căn bản có đặc điểm là không có độc tính, dễ sử dụng, có
tác dụng kích thích tiêu hoá, nhuận gan, nhuận trường, lợi tiểu, giải độc và
tăng cường sức đề kháng của cơ thể. Tuỳ theo tình trạng của người bệnh và điều
kiện của địa phương mà linh động gia giảm vị thuốc hoặc liều thuốc.
Toa thuốc căn bản gồm:
-Rau má 8g, Rể tranh 8g, Lá muồng trâu 4g, Cỏ mần chầu 8g,
Cỏ mực 8g, Cam thảo nam 8g, Ké đầu ngựa 8g, Củ sả 4g, Gừng tươi 4g, Vỏ quít 4g.
Đổ 3 chén nước sắc còn non một chén, uống lúc thuốc còn ấm.
2-Hoàn ích khí,
dưỡng âm, trợ cơ, cứu đói:
Có thể làm thuốc bổ dưỡng cho
trẻ em, người già hoặc ngưòi ốm mới khỏi hoặc dùng làm lương khô mang theo khi
đi xa phòng khi thiếu thốn thực phẩm.
Toa thuốc gồm 4 vị :
-Lá dâu tầm,Mè đen, Bột củ mài và Rau má.
Mỗi vị ngang nhau, tán
bột làm hoàn, mỗi hoàn khoảng 5g. Mỗi ngày dùng
2 lần, mỗi lần 1 hoặc 2 hoàn.
3-Thoái nhiệt đơn:
Có công dụng giảm nhiệt, hạ sốt, trừ khát, trấn kinh.
Rau má 15%, Hoạt thạch 30%, Sắn dây 20%, Sài hồ 15%, Thạch
cao 10%, Cam thảo 10%.Tán bột, ngày uống 3 lần, mỗi lần 4g.
4-Thuốc hạ huyết áp:
Rể nhàu 16g, Rể kiến cò 12g, Lá tre l2g, Rể tranh 12g,Rể cỏ
xước 12g, Rau má 16g, Lá dâu 12g. Sắc uống hoặc đóng viên làm trà uống thay
nước hàng ngày.
5-Sốt xuất huyết:
Rau má 20g, Cỏ mực 16g, Rau sam 16g, Đậu đen 16g. Sắc
uống.
6-Sốt, thổ huyết,
chảy máu cam, tả lỵ, khí hư, bạch đới:
Mỗi ngày dùng 30-40 g
rau má tươi (cả cây) vò nát, vắt lấy nước hoặc sắc uống.
7-Kiết lỵ, lậu
nhiệt, tiểu tiện đục, sỏi thận, sỏi bàng quang:
Rau má tươi (cả cây) 30-40 g, rửa sạch, giã nhuyễn, vắt lấy
nước, hòa thêm ít đường uống hằng ngày. Có thể luộc ăn như rau.
8-Đau bụng, đau
lưng khi hành kinh:
Rau má hái lúc mới ra hoa, rửa sạch, phơi khô, tán nhỏ. Ngày
uống 2 thìa cà phê vào buổi sáng.
9-Chữa rối loạn cơ thể: toàn cây rau má có tác dụng tốt trên các cơ quan hấp thu,
tiêu hóa, biến dưỡng và bài tiết, giúp duy trì hoạt động của các cơ quan này,
chống lại quá trình gây viêm và còn có tác dụng như một thuốc tẩy
nhẹ.
10- Giúp tăng trí nhớ: lá rau má sấy khô tán bột, uống chung với sữa mỗi ngày 3-5
gam sẽ có tác dụng tốt cho những người mắc bệnh suy giảm trí nhớ và thị lực.
11-Chữa lỵ ở trẻ em: lấy 3-4 lá rau má sắc chung vài cọng thì là, thêm ít đường
cho trẻ uống, cùng lúc giã vài lá rau má đắp lên rốn của trẻ.
12-Chữa suy nhược thần
kinh: nghiền bột lá đã được phơi khô trong râm, uống mỗi ngày
30-60 gam, chia ba lần mỗi ngày cho người lớn và 7,5-25 gam cho trẻ em.
13-Giúp thanh lọc cơ thể
phụ nữ: rau má nhổ cả
rễ, phơi khô trong mát, xay thành bột. Mỗi ngày hai lần, sáng và chiều, mỗi lần
3 gam bột uống chung với sữa bò tươi, uống liên tục trong ba ngày ngay sau khi
hết kinh. Món thuốc này còn chữa được các chứng đau bụng kinh. Nhờ tính thanh
lọc này mà rau má giúp phụ nữ trẻ lâu, da dẻ hồng hào, khí huyết lưu thông tốt,
phòng chống được nhiều bệnh tật.
14-Bệnh chân voi và viêm
tinh hoàn: những người bị
phù chân voi hoặc tinh hoàn bị sưng to, ép lấy dịch rau má tươi, pha thêm nước
và bôi ngay lên các vùng bị sưng tấy.
15-Bệnh ngoài da: rau má được dùng chữa các bệnh ngoài da như chàm, ung nhọt,
lở loét, phong và cả bệnh giang mai. Lấy bột lá khô hòa với nước đắp lên các
vùng bị nhiễm kèm với uống dịch chiết rau má mỗi ngày ba lần, mỗi lần 1-5 giọt.
16-Tác dụng kháng khuẩn: chất asiaticosid có trong lá rau má còn có tác dụng làm tan
màng sáp của một số vi khuẩn, nhờ đó gia tăng tác dụng kháng khuẩn của rau má.
* Cách dùng:
- Dạng nước sắc: 30-60ml, ngày ba
lần.
- Dạng bột: 20-60gam, ngày ba lần.
- Dịch ép tươi: 60-100ml/ngày,
dạng lá tươi: 50-100gam/ngày.
- Dân gian hay dùng làm rau ghém
ăn sống, nấu canh, xay thành nước ép như sinh tố, dùng riêng hoặc chung với các
loại rau quả khác.
Lưu ý!
Rau má có tính lạnh nên những người có Tỳ Vị hư hàn, hay đầy
bụng hoặc đi tiêu lỏng cần cẩn thận khi dùng. Những trường hợp nầy chỉ
nên dùng vài lá mỗi lần hoặc khi dùng kèm theo một vài lát gừng sống. Dùng
ngoài da không giới hạn. Không nên dùng rau má quá nhiều vì có thể làm bệnh
nhân say thuốc dẫn đến hôn mê.
Nguồn: theo Y học cổ truyền Việt Nam.
Kỹ sư Hồ Đình Hải
Xem Video: Cây rau má ở miền quê
Xem video: Công dụng dược liệu của cây rau má
Nguồn: theo Y học cổ truyền Việt Nam.
Kỹ sư Hồ Đình Hải
Xem Video: Cây rau má ở miền quê
Xem video: Công dụng dược liệu của cây rau má
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét